ĐỖ TUÂN HẠC (杜荀鶴 )
再經胡縣城
去歲曾經此縣城,
縣民無口不冤聲;
今來縣宰加朱紱,
便是生靈血染成。
Tái kinh Hồ Thành huyện
Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh.
Kim lai huyện tể gia chu phất,
Tiện thị sinh linh huyết nhiễm thành.
Dịch nghĩa
Năm ngoái ta từng đi qua huyện này
Không miệng người dân nào không cất tiếng kêu oan
Năm nay quan huyện lại được thưởng dây tua đỏ
Hẳn là do máu dân lành nhuộm nên
Thăm lại Huyện Hồ Thành
Năm ngoái ta đi thăm huyện thành
Dân oan than khóc thấu trời xanh
Nay quan được thưởng dây tua đỏ
Hẳn là máu của đám dân lành
Mai Ngọc Cường
山中寡婦(一作時世行)
夫因兵死守蓬茅,
麻苧衣衫鬢髮焦。
桑柘廢來猶納稅,
田園荒後尚征苗。
時挑野菜和根煮,
旋斫生柴帶葉燒。
任是深山更深處,
也應無計避征徭。
杜荀鶴
Sơn trung quả phụ( nhất tác " Thời thế hành " )
Phu nhân binh tử thủ bồng mao ,
Ma trữ y sam mấn phát tiêu .
Tang chá phế lai do nạp thuế ,
Điền viên hoang hậu thượng chinh miêu .
Thời khiêu dã thái hòa căn chử ,
Toàn chước sinh sài đới diệp thiêu .
Nhậm thị thâm sơn cánh thâm xứ ,
Dã ưng vô kế tị chinh diêu.
Đỗ Tuân Hạc
Chú thích:
Chá 柘 : cây chá , giống như cây dâu dùng để nuôi tằm .
Chinh 征 , cũng đọc là trưng 徵 : thu , lấy .
Chinh phú 征賦: lấy thuế , chinh thuế 征稅 : thu thuế .
Hoặc :
Trưng phú 徵賦: thu thuế
* Dịch thơ
Bà Góa Trong Núi
Nhà nghèo,chồng chết trận lâu rồi,
Mái tóc hoa râm tấm áo sồi .
Canh cửi, sưu cao đành bỏ phế,
Ruộng vườn,thuế nặng để hoang thôi .
Lượm rau cỏ dại làm canh húp,
Mót rác rơm tươi chụm đáy nồi.
Chui rúc trong hang cùng hóc núi,
Vẫn không tránh khỏi thuế sưu đòi .
Cao Nguyên
Mai Ngọc Cường
Đỗ Tuân Hạc 杜荀鶴 (846-904), thi nhân đời Vãn Đường, tự Ngạn Chi 彥之, hiệu Cửu Hoa sơn nhân 九華山人, người Thạch Đại 石埭, Trì Châu 池州 (nay thuộc Thạch Đài 石台, An Huy 安徽, Trung Quốc). Thời Vãn Đường.
CAO ĐỈNH
過柳溪道院
溪上誰家掩竹扉,
鳥啼渾似惜春暉。
日斜深巷無人跡,
時見梨花片片飛。
戴叔倫
卷274_58
Quá Liễu Khê đạo viện
Khê thượng thùy gia yểm trúc phi ,
Điểu đề hồn tự tích xuân huy .
Nhật tà thâm hạng vô nhân tích ,
Thời kiến lê hoa phiến phiến phi .
Đới Thúc Luân
Liễu khê: suối Liễu ở Hàng Châu 杭州, Chiết Giang 浙江.
Dịch thơ :
Qua Đạo Viện Liễu Khê
Nhà ai cửa trúc che bên suối
Chim kêu chừng tiếc nuối ngày xuân
Ngõ chiều chẳng một dấu chân
Hoa lê từng cánh trắng ngần bay bay
Mai Ngọc Cường
Qua Đạo Viện Liễu Khê
Bên suối nhà ai cổng trúc cài
Chim kêu chừng tiếc nuối ngày dài
Ngõ chiều không bóng người lai vãng
Từng cánh hoa lê lất phất bay
Cao Nguyên
除夜宿石橋館
旅館誰相問?
寒燈獨可親。
一年將盡夜,
萬里未歸人。
寥落悲前事,
支離笑此身。
愁顏與衰鬢,
明日又逢春。
戴叔倫
Trừ dạ túc Thạch Đầu dịch
Lữ quán thùy tương vấn?
Hàn đăng độc khả thân.
Nhất niên tương tận dạ,
Vạn lý vị quy nhân.
Liêu lạc bi tiền sự,
Chi ly tiếu thử thân.
Sầu nhan dữ suy mấn,
Minh nhật hựu phùng xuân.
Đới Thúc Luân
Đêm trừ tịch trú ở trạm Thạch Đầu
Quán trọ ai hỏi thăm?
Một mình bên đèn lạnh.
Tàn dần đêm cuối năm,
Người vẫn xa nghìn dặm.
Lưu lạc buồn chuyện cũ,
Gượng cười mà thương thân.
Tóc bạc thêm ủ rũ
Ngày mai vẫn chào xuân
Cao Nguyên
Đêm trừ tịch ở Trạm Thạch Đầu
Nơi quán khách ai người thăm hỏi
Bên ngọn đèn lạnh nỗi đơn thân
Cuối năm, đêm sắp qua dần
Người đi muôn dặm chưa lần về quê
Thân lưu lạc tái tê chuyện cũ
Gắng gượng cười ủ rũ thương thân
Nét buồn, tóc cỗi hoa râm
Ngày mai lại gặp mùa xuân trở về
Nghi Uyên
別鄭谷
朝陽齋前桃李樹,
手栽清蔭接比鄰。
明年此地看花發,
愁向東風憶故人。
戴叔倫
卷274_55
Biệt Trịnh Cốc
Triêu dương trai tiền đào lý thụ,
Thủ tài thanh ấm tiếp tỉ lân.
Minh niên thử địa khán hoa phát,
Sầu hướng đông phong ức cố nhân.
Đới Thúc Luân
Từ biệt Trịnh Cốc
Đào lý trước nhà đón nắng mai
Ngả sang hàng xóm bóng lan dài
Đất này năm mới xem hoa nở
Thấy gió đông buồn lại nhớ ai
Cao Nguyên Minh
Đới Thúc Luân 戴叔倫 (732-789) tên chữ là Ấn Công 幼公, người Giang Tô, làm quan đến Phủ Châu thứ sử.Thời Trung Đường
Trịnh Cốc 鄭谷 (849-911) tên chữ là Thủ Ngu 守愚, người Viên Châu, Giang Tây (nay thuộc Nghi Xuân) thời Vãn Đường.