Saturday, September 30, 2023

B Ô N G H Ẹ B A N M A I

 

Sớm mai ra thăm vườn khi nắng chưa lên sương còn đọng trên lá cỏ. Hoa thiên lý, bông ớt, bông hẹ nở bung, tươi tốt… toàn là những loài hoa …ăn được. Chụp dàn bông hẹ trắng muốt in trên nền đen xám ban mai lại nhớ câu ca dao:
Mưa lâm râm ướt đầm bông hẹ
Anh thương một người có mẹ có cha
Cây hẹ cũng rối như canh hẹ, tên tiếng Anh của nó là Chinese Chives vì xuất xứ từ vùng Shānxī (Sơn Tây) miền bắc Trung Quốc.
Tiếng Hán gọi nó là rau cửu, cửu thái hay khởi dương thảo.
Ta gọi là hẹ
Đỗ Phủ thời Thịnh Đường có nhắc đến rau hẹ trong bài ngũ ngôn cổ thi Tặng Vệ bát xử sĩ (Tặng chàng xử sĩ họ Vệ) trích đoạn cuối :
Dạ vũ tiễn xuân cửu,
Tân xuy gián hoàng lương.
Chủ xưng hội diện nan,
Nhất cử luỹ thập trường.
Thập trường diệc bất tuý,
Cảm tử cố ý trường.
Minh nhật cách sơn nhạc,
Thế sự lưỡng mang mang
Dịch
Hái rau hẹ xuân trong mưa đêm
Cơm lẫn kê vàng vừa chín tới
Thật khó mới có dịp tương hội
Phải uống mười chén rượu một hơi
Mười chén rượu liền cũng chưa say
Chỉ cảm say vì tình bằng hữu
Ngày mai cách xa sau buổi rượu
Việc đời man mác biết về đâu (mnc)
Ôi!
“Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu” (Nguyễn Gia Thiều)
Việc đời bao giờ cũng rối như canh hẹ, 
nhưng để vài phút tạm ngắm bông hẹ trắng sáng nay cho nhẹ lòng …
Bạn ơi!
mnc

Ghi thêm:

















漿







Tặng Vệ bát xử sĩ

Nhân sinh bất tương kiến,
Ðộng như Sâm dữ Thương.
Kim tịch phục hà tịch,
Cộng thử đăng chúc quang.
Thiếu tráng năng kỷ thì,
Mấn phát các dĩ thương.
Phỏng cựu bán vi quỷ,
Kinh hô nhiệt trung trường.
Yên tri nhị thập tải,
Trùng thướng quân tử đường.
Tích biệt quân vị hôn,
Nhi nữ hốt thành hàng.
Di nhiên kính phụ chấp,
Vấn ngã lai hà phương.
Vấn đáp nãi vị dĩ,
Khu nhi la tửu tương.
Dạ vũ tiễn xuân cửu,
Tân xuy gián hoàng lương.
Chủ xưng hội diện nan,
Nhất cử luỹ thập trường.
Thập trường diệc bất tuý,
Cảm tử cố ý trường.
Minh nhật cách sơn nhạc,
Thế sự lưỡng mang mang

Đỗ Phủ 

Bài thơ này thầy tôi đã dịch theo thể ngũ ngôn như sau: 

 Tặng Vệ Bát Xử Sĩ

Ở đời không gặp gỡ 

Như cách vời Sâm Thương

Đêm nay giống đêm nào

Chung ánh nến canh trường


Được bao lâu khỏe mạnh

Mái tóc đều pha sương

Bạn xưa chết quá nửa

Lòng kinh sợ bàng hoàng


Ngờ đâu hai mươi năm

Lại lên nhà quân tử

Xưa bạn chưa có vợ

Nay con cái đầy đàn


Mừng vui chào lạy bác

Hỏi tôi từ đâu sang

Hỏi đáp còn chưa dứt

Mâm rượu đã sẵn sàng


Rau xuân hái mưa tối

Cơm thổi lẫn kê vàng

Chủ than khó gặp mặt

Mười chén cạn một hơi


Mười chén cũng không say

Cảm động tình xưa cũ

Mai núi sông cách trở

Cùng man mác việc đời

Trần Trọng San 

Tôi xin dịch ra thể thơ Lục Bát Việt Nam theo lối kể chuyện như trong nhiều bài thơ dài của Đỗ Phủ 


Đời người mấy lúc gặp nhau 

Như Sâm, Thương cách đôi sao trên trời 

Đêm nay cũng một đêm thôi 

Ngồi chung bên ánh đèn khơi đôi đầu 

Trai trẻ có được bao lâu 

Hai ta tóc đã bạc mầu như nhau 

Bạn xưa còn mấy ai đâu 

Một nửa khuất núi khó cầu gặp nhau 

Ngờ đâu hai chục năm sau 

Ta còn có dịp nói câu tương phùng 

Năm xưa bạn sống độc thân 

Giờ đàn con, cháu ra sân đón chào 

Kính cẩn mời bạn cha vào 

Hỏi thăm niềm nở khác nào người thân 

Một hồi chuyện vãn xa gần 

Xấp nhỏ bày tiệc tẩy trần liền bên 

Hái hẹ xuân trong mưa đêm 

Cơm vừa chín tới ghế thêm kê vàng 

Bạn bảo khó có dịp đôi đàng gặp đây 

Phải2 uống mươi chén rượu đầy 

Một hơi nhưng vẫn chưa say phen này 

Cảm vì tình bạn mà say 

Ngày mai ta lại chia tay giang đầu 

Việc đời mang mác về đâu 


maingocuong dịch



N G Ẫ U C Ả M

 “Quốc phá sơn hà tại”


Bạch đầu tráng sĩ ngâm


NGẪU CẢM
Người lính năm xưa giờ đã già
Ngồi ôn kỷ niệm tháng ngày qua
Trên nhịp thời gian trôi mải miết
Những hình bóng cũ đã dần xa
Hoa rừng màu cũ vai áo bạc
Chiều nghiêng bóng núi nắng đã tà
Ta cũng nghiêng đời trong quán vắng
Chờ ai nghiêng chén lạnh quan hà
Cúi đầu trên những trang sách cũ
Bao hồn thiên cổ đã mờ xa
Mắt đã nghe chừng ngân ngấn lệ
Còn một chốn nao gọi là nhà
Như những chuyến tàu đi đi mãi
Cuối cùng rồi cũng đến sân ga
Đâu biết ga nào là ga cuối
Tàu đến trong đêm tối nhạt nhòa
mnc