Sunday, October 30, 2022

ẢI CHI LĂNG

 



Nhân đọc lại một ít tài liệu lịch sử và địa lý nước nhà để làm một project sắp tới tình cờ tìm thấy một số báo cũ về Ải Chi Lăng, nơi mà tướng Lê Sát và nghĩa quân Lam Sơn của Bình Định Vương Lê Lợi đã chém bay đầu Liễu Thăng, tướng giặc Nhà Minh tại đây. Về sau quân Tàu kinh khiếp gọi Ải Chi Lăng là Quỉ Môn Quan. 


Nếu truyện kiếm hiệp của Kim Dung có nhắc đến Nhạn Môn Quan bên Trung Hoa, nơi diễn ra trận chiến của Dương gia tướng nhằm ngăn quân Liêu tiến vào Trung Nguyên, thì Việt Nam cũng có một quan ải nổi tiếng là Quỷ Môn Quan, nơi quân Đại Việt đã nhiều lần ngăn vó ngựa xâm lược phương Bắc. Giặc Tàu rất sợ  “Quỷ Môn Quan! Quỷ Môn Quan! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn” (Cửa Quỷ ! Cửa Quỷ! Mười người vượt qua, chỉ một tên sống sót trở về. ) 

Đó chính là Ải Chi Lăng lưu danh hùng sử. Ngoài chiến thắng chém tướng  Minh Liễu Thăng ( năm 1427) còn nhiều chiến công khác của cha ông ta với 2 lần chống quân Tống xâm lược (năm 981 và 1077), 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông (năm 1285 và 1287), cuộc chống quân xâm lược Mãn Thanh (năm 1788 - 1789). 

Bình sinh tôi 

Chưa từng thăm viếng Ải Chi Lăng 

Việt Nam hùng sử đã viết rằng 

Quỷ Môn Quan khiếp quân phương Bắc 

Nơi chém bay đầu giặc Liễu Thăng


Nay lật lại trang sử vàng mà lòng chợt cảm khái vô cùng . Lại may được đọc hai bài thơ xưa về chiến công Chi Lăng. Xin chép lại đây một bài của Phạm Sư Mạnh đời Trần và một bài của Nguyễn Du thời nhà Nguyễn. Xin chia sẻ cùng những ai yêu thích cổ thi: 


Chi Lăng động (支陵洞) là bài thơ được Phạm Sư Mạnh, tể tướng nhà Trần, sáng tác từ thế kỷ 14, khi ông dừng chân trước Ải Chi Lăng trên bước đường tuần thú xứ Lạng. Bài thơ ca ngợi cảnh non sông hùng vĩ nơi đây.


支陵洞

千里巡邊殷鼓鼙,

藩城蠻寨一醯雞。

澗南澗北紅旗轉,

軍後軍前青兕啼。

漊瀨谷深於井底,

支陵關險與天齊。

臨風跋馬高回首,

禁闕岧嶢雲氣西


Chi Lăng động 

Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề

Phiên thành man trại nhất ê kê

Giản nam giản bắc hồng kỳ chuyển

Quân hậu quân tiền thanh hủy đề

Lâu lại cốc thâm ư tỉnh để

Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề

Lâu phong bạt mã cao hồi thủ

Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê


Phạm Sư Mạnh 


Nghĩa : Đi nghìn dặm tuần tra biên giới, trống trận vang ầm,

Thành Phiên, trại Mán bé bằng con sâu.

Phía nam, phía bắc dòng suối, cờ hồng lay động,

Đằng trước, đằng sau đội quân, trâu rừng rống vang.

Hang Lâu Lại sâu hơn đáy giếng,

Ải Chi Lăng hiểm bằng lên trời.

Trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu nhìn,

Cửa khuyết cao chót vót ở tầng mây phía tây.


Dịch thơ: 

Động Chi Lăng 

Nghìn dặm biên thuỳ tiếng trống vang 

Mờ xa ẩn hiện trại phiên man 

Cờ hồng phất phới bên nam, bắc 

Trâu rống theo quân khắp đại ngàn 

Sâu thẳm giếng khơi hang Lâu Lại

Đường lên trời hiểm Ải Chi Lăng

Lên cao ghì ngựa nhìn trong gió 

Chót vót từng mây cung khuyết giăng


(mnc dịch)


⚜️


Bài thơ “Quỷ Môn đạo trung” Nguyễn Du trên đường đi sứ sang nhà Thanh, khi qua Chi Lăng đã làm bài thơ này. 

 


鬼門道中

鬼門石徑出雲棍

征客南歸欲斷魂

樹樹東風吹送馬

山山落月夜啼猿

中旬老態逢人懶

一路寒威仗酒温

山塢何家大貪睡

日高猶自掩柴門


 阮攸


Quỷ Môn đạo trung

Quỷ Môn thạch kính xuất vân côn

Chinh khách nam quy dục đoạn hồn

Thụ thụ đông phong xuy tống mã

Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên

Trung tuần lão thái phùng nhân lãn

Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn

Sơn ổ hà gia đại tham thụy

Nhật cao do tự yểm sài môn

Nguyễn Du 


Nghĩa: Trên đường qua Quỷ Môn Quan 

Đường đá ở núi Quỷ Môn từ chân mây đi ra,

Lữ khách về nam trông thầy mà kinh hồn.

Gió đông thổi qua hàng cây vào đám ngựa đi tiễn,

Trăng tà lặn sau dãy núi, ban đêm nghe tiếng vượn hú.

Ta đang độ tuổi trung niên mà đã có vẻ già, rất ngại chuyện thù tiếp,

Dọc đường trời lạnh, nhờ hơi rượu mà ấm lòng.

Trong xóm dưới núi kia, nhà ai ham ngủ thế?

Mặt trời lên cao rồi mà cửa tre còn đóng kín.


Dịch thơ: 

Đường qua Quỷ Môn Quan

Đường đá Quỷ Môn thức mây tuôn

Đi về Nam khách phải kinh hồn 

Gió đông quyện lá vào chân ngựa 

Trăng lặn về đêm vượn hú dồn

Tráng khí như ta còn thấy sợ 

Nhờ hơi rượu ấm bớt bồn chồn

Nhà ai dưới núi còn im ỉm 

Trưa trật còn say ngủ giấc nồng 


maingocuong 



Friday, October 28, 2022

NHỚ CỤ TÚ XƯƠNG : Thi hỏng và hỏng thi

 Không ai làm thơ về thi cử và thi hỏng nhiều hơn cụ Tú Trần Tế Xương, một trong những nhà nho cuối cùng của nền Hán học nước ta vào cuối thế kỷ XIX. 

Cuộc đời ông Tú gắn liền với thi cử. Tổng cộng tất cả là tám lần lều chõng thi Hương , đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). 

“Mấy khoa hương thí không đâu cả,

Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.” 


Sau 3 lần hỏng thi, mãi đến lần thứ tư của khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là Tú tài thiên thủ, Tú tài đậu vớt, Tú tài cuối bảng lúc đó ông đã 24 tuổi. Vẫn là anh khoá nghèo, ông Tú kiết. Cái gia cảnh túng quẫn trong thơ ông đã diễn tả 

“Gạo cứ lệ ăn đong bữa một,

Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.”

“Tiền bạc phó cho con mụ kiếm” 

Bà Tú cần cù lam lũ “Lặn lội thân cò nơi quãng vắng” 

“Nuôi đủ năm con với một chồng” 

Còn ông Tú Vị Xuyên cứ “vẫn phong lưu suốt cả đời” theo đuổi đèn sách, dùi mài nghiên bút đọc sách làm thơ, kiên trì làm anh khoá ứng thi thêm 4 hương khoa nữa những mong rồng mây gặp hội… nhưng đường khoa hoạn công danh vẫn đen như mõm chó. Ông phải than thân 

“Học đã sôi cơm nhưng chửa chín

Thi không ăn ớt thế mà cay”

“Đệ nhất buồn là cái hỏng thi”

“ Đau quá đòn hằn

Rát hơn lửa bỏng

Hổ bút, tủi nghiên

Tủi lều, tủi chõng”…

Trong bài Phú Hỏng Thi năm Canh Dần 1900 ông vẫn hoàn thân phận Tú tài lạc đệ và sáu năm kế tiếp tuy cay đắng lều chõng thêm 2 khoa thi nữa chẳng ra sao, hỏng thi lần thứ 8 và khi trở về ông Tú đã đột ngột nhuốm thương hàn và qua đời khi mới 37 tuổi. 


Cả cuộc đời ngắn ngủi chỉ hơn 30 năm đèn sách ông vẫn chỉ là anh học trò già, anh khoá số đen, ông Tú tài lạc đệ không sao vượt vũ môn để đậu tứ trường thành ông cử nhân Hương cống thay cho thân phận Tú tài mong có cơ hội 

“Mở mặt quyết cho vua chúa biết

Đua danh kẻo nữa mẹ cha già”, 

“Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vẻ vang mặt vợ”…

Học tài thi phận, thi biết bao lần hỏng vẫn hoàn hỏng, cho là số còn đen,

nên khoa hương thí  Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:

“Tế đổi làm cao mà chó thế,

Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!” 

Để rồi cuối đời ông Tú hỏng thi tự an ủi rằng 

“Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;

Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!” 


Xã hội bấy giờ, cái bằng Tú tài ( còn gọi là Sinh đồ) thuộc loại dang dở, dở dang (Tú tài không được thi Hội, phải đậu Hương cống (cử nhân) Các sĩ tử đi thi Hội ở Kinh đô sẽ được gọi là Cống sinh hay Cống sĩ, đậu kỳ thi Hội  mới được bước vào sân Rồng dự thi Đình để vua chọn hiền tài Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa … được “vua biết mặt, chúa biết tên” được vua vời ra làm quan, lo toan việc nước, thi thố tài kinh bang tế thế xứng danh kẻ sĩ “Nhất Sĩ nhì Nông …”: một thời đã qua…

Tú Xương tận tụy một đời với Nho học cũng phải cảm thán 

“Nào có ra gì cái chữ nho 

Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”



ĐI THI 


Tấp tểnh người đi tớ cũng đi

Cũng lều cũng chõng cũng đi thi

Tiễn chân, cô mất hai đồng chẵn

Sờ bụng, thầy không một chữ gì!

Lộc nước còn mong thêm giải ngạch

Phúc nhà nay được sạch trường quy

Ba kỳ trọn vẹn, thêm kỳ nữa

Ú ớ u ơ ngọn bút chì!


THÂN THÂN 

Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,

Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.

Mấy khoa hương thí không đâu cả,

Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.

Gạo cứ lệ ăn đong bữa một,

Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.

Bắc thang lên hỏi ông trời nhẽ:

Trêo ghẹo người ta thế nữa thôi?

Trần Tế Xương 


THI HỎNG

Ngày mai tớ hỏng, tớ đi ngay!

Cúng giỗ từ đây nhớ lấy ngày!

Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,

Thi không ăn ớt thế mà cay!

Sách đèn phó mặc đàn con trẻ,

Thưng đấu nhờ tay một mẹ mầy.

“Cống hỉ”, “mét xì” thông mọi tiếng,

Chẳng sang Tàu, tớ cũng sang Tây.


Trần Tế Xương 


KHUYẾN THI 

( Khuyên học trò đi thi ) 

Nhà nước còn thi hãy cứ thi,

Việc gì mà chẳng rủ nhau đi?

Sử đề theo sách quan Ngô Giáp;

Toán pháp thêm bài hội Trí Tri,

Muốn sống phải chăm mài bút sắt,

Cho mau chớ chậm đổ hòn chì

Đỗ đâu hết cả nhà thông ký,

Phận của nhà nho có một ly.


Tú Xương


mnc 

( cuối tháng mười)



⚜️⚜️⚜️


Viết thêm 

“Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới 

Đá xanh xây cống hòn dưới nống hòn trên” 

Mấy hôm trước nhân buổi trà dư tửu hậu cùng người bạn có đề cập đến chuyện thi cử thời xưa và thời nay. Khi tiến xĩ loạn cào cào trên đất nước nghìn năm, bạn nhớ đơn giản là thi Hương : Tú tài ; thi Hội : Cử nhân; thi Đình: Tiến sĩ. Đó là cái nhớ của bạn nhưng khoa cử ngày xưa không đơn giản như vậy và không như vậy. Nó nhiêu khê hơn nhiều. 

Tóm tắt là như vầy: 

1. Thi hương: đỗ tam trường (ba vòng đầu), đậu Tú tài; đỗ tứ trường: Hương cống (về sau gọi là Cử nhân); đỗ thủ khoa: Giải nguyên.

2. Thi hội: đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi đình; đỗ bảng thứ là thứ  cách, gọi là Phó bảng; đỗ thủ khoa: Hội nguyên.

3. Thi đình: đỗ thi đình gọi chung là Tiến sĩ (ông Nghè); đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó ba ngôi vị đầu là Trạng nguyên đậu đầu, kế đó là Bảng nhãn và Thám hoa.


mnc 


Tác giả Vĩnh Đào có viết một bài về Chuyện khoa cử ngày xưa đăng trên Tập San Việt Học rất chi tiết và lý thú.


Theo đường link dẫn sau để đọc bài của anh Vinh Dao

http://viethocjournal.com/2020/05/chuyen-ve-thi-cu-ngay-xua

Saturday, October 15, 2022

TUYẾT VÀ MAI


 “em mang tên một loài hoa 

người con gái hát khúc nhạc buồn 






https://online.fliphtml5.com/uwgth/yvxo/#p=58

Nhớ xưa khi còn học thầy Trần Trọng San dạy bài Tam Hữu (ba người bạn) của mùa đông tuyết giá lạnh rét là Tùng Trúc Mai: “Đình tiền mai thụ khai hoa trúc tùng tịnh mậu” ( Trước sân cây mai đã nở hoa cùng trúc, tùng thảy đểu tươi tốt) cổ thư gọi đó là Tuế Hàn Tam Hữu. 



Trong tuế hàn tam hữu, cổ nhân xếp Mai ở vị trí thứ ba, bởi vì, tùng (bách) và trúc bốn mùa đều xanh tươi, duy nhất chỉ có Mai, chỉ nở hoa vào đúng lúc mùa đông giá rét nhất, báo hiệu mùa Xuân sắp trở về. 

Mai mà cổ nhân thường ngâm vịnh, có ba loại: dương mai, mai vàng và mai. Nói đúng hơn, chỉ có loại thứ ba mới là “Mai” - một trong tuế hàn tam hữu. 

Đó là cánh mai trắng mong manh như tuyết trong thơ “mai hoa sắc bạch tuyết trung minh” ( sắc trắng hoa mai sáng trong tuyết).

Thế nên mai thường đi đôi với tuyết, tuyết vẫn đi đôi với mai.

Từ ngàn năm trước, hoa mai đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thi nhân. Hoa mai được nhắc nhở trong thi ca của người xưa, cả ở Trung Hoa lẫn Việt Nam, thường là loại mai trắng. Đó là loại mai được nhắc đến trong thơ Trương Thuyết đời Đường: 

Khứ tuế Kinh Nam mai tự tuyết 

Kim niên Kế Bắc tuyết như mai 

Năm ngoái ở Kinh Nam (nay thuộc Hồ Quảng), hoa mai trắng như tuyết 

Năm nay ở Kế Bắc (nay là Bắc Kinh), tuyết trắng như hoa mai 

Không như hầu hết các giống mai vàng ở phương Nam, loại mai trắng ở Trung Hoa và miền Bắc nước ta có mùi hương dịu dàng, thanh khiết, chẳng hạn như mùi hương của rừng mai nơi cung Dao Trì thuở xưa: 

Dao Trì bất thị tuyết 

Vị tiểu ám hương lai 

(Cổ thi) 

(Nhìn về cung Dao Trì (thấy một mầu trắng nhưng) biết không phải là tuyết 

Vì có phảng phất mùi hương (thơm) 

Lư Mai Pha, một thi nhân đời Tống, đã so sánh mai và tuyết qua hai câu: 

Mai tu tốn tuyết tam phân bạch 

Tuyết khước thâu Mai nhất đoạn hương 

(Mai nên nhường tuyết ba phân trắng 

Tuyết phải thua mai một bậc thơm) 


Ôi một buổi sớm thứ bảy ngày nào cũng rảnh, đọc lại cổ thư mà bỗng muốn làm người Chu Thần Cao Bá Quát xưa nhìn hoa mà ngâm ngợi câu: 

“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

十載侖交求古劍

一生低首拜梅花

(Mười năm xuôi ngược giao du chỉ cốt tìm thanh cổ kiếm 

Một đời chỉ cúi đầu bái lạy trước hoa mai) 




Mười năm lặn lội tìm gươm  báu

Một đời cung kính bái hoa mai 

Mai này trong tuế hàn tam hữu 

( Kính dâng hương hồn thầy Trần Trọng San, ân sư trong đời )


mnc 

15/10

Thursday, October 13, 2022

V Ô Đ Ề

 Đi xa về thăm vườn cũ 

Hái những bông hoa cuối mùa 

Bỗng dưng xót lòng du tử 

Nhà huyên quạnh quẽ gió lùa 


Ai biết lòng con như tấc cỏ

Làm sao đền đáp ánh ba xuân (*)


Ngọn gió mùa thu nhè nhẹ

Ôi ! giàn thiên lý đã xa 

Nấu bát canh rau nhớ mẹ 

Rưng rưng tóc trắng … nhạt nhòa 

 mai ngọc cường 

12/10



(*)Thoát từ 

Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,

Báo đắc tam xuân huy

Mạnh Giao (Du tử ngâm)

TƯỞNG NIỆM THI SĨ CUNG TRÀM TƯỞNG (1932-2022)

 


Tưởng nhớ Cung Trầm Tưởng ( 1932-2022 ) 

“Nhà thơ Cung Trầm Tưởng, tác giả của nhiều bài thơ nổi tiếng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc như “Mùa Thu Paris,” “Chưa Bao Giờ Buồn Thế,”… vừa qua đời lúc 4 giờ 27 phút, chiều 9 Tháng Mười, tại bệnh viện United Hospital, thành phố Saint Paul, tiểu bang Minnesota.” Báo Người-Việt đã cho biết tin trong số báo ra ngày 9 tháng 10 năm 2022.

“Nhà thơ Cung Trầm Tưởng “tên thật là Cung Thức Cần, sinh ngày 28 Tháng Hai, 1932, tại Hà Nội, sau đó di cư vào Nam và sống tại Sài Gòn. Sau 1975 ông bị tù cộng sản, gia đình mất nhà và về sống với nhà bà nội tại đường Trần Hưng Đạo, Quận 1. Năm 1993 gia đình sang Mỹ theo diện HO, định cư tại thành phố Eagan, tiểu bang Minnesota, với sự giúp đỡ của nhạc sĩ Cung Tiến.” Bà Hằng Cung, trưởng nữ của nhà thơ đã cho biết như vậy. 

Những tên tuổi lớn của nền thi ca Việt Nam như  Nguyên Sa, Phạm Duy, Cung Tiến, Cung Trầm Tưởng … lần lượt theo thời gian đã về cõi thiên cổ mang mang. 

Những tiếng thơ của Cung Trầm Tưởng ( cũng như Nguyên Sa) qua những bài thơ bốn chữ, năm chữ “ Mùa Thu Paris,” “Chưa Bao Giờ Buồn Thế,” một thời đã mở ra cánh cửa viễn du cho chúng tôi (cũng như hầu hết lớp người trẻ miền Nam ngày ấy) một mơ ước là có một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng của ga Lyon! Ðược thấy sông Seine (qua thơ Nguyên Sa,) hay được đặt chân vào một quán rượu ở Paris. Mơ ước  đến những “người em xóm học” những “ người em mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ” của nhà thơ … Ôi ! Những mơ ước nghìn trùng tuyệt vời … của một thời tự do tư tưởng của miền Nam Việt Nam. 

Hôm nay, nghe tin nhà thơ đã không còn nữa, xin kính gửi nén hương lòng của một kẻ hậu sinh tưởng tiếc Ông, nhà thơ Cung Trầm Tưởng.

Nhìn gửi lên đây một bài viết của tác giả Vĩnh Đào với những nhận định lý thú về nhà thơ  Cung Trầm Tưởng khi ông còn tại thế: (mnc 10/10/2022) 

⚜️⚜️⚜️

MÙA THU PARIS 

với Cung Trầm Tưởng và Phạm Trọng Cầu

Bài của Vĩnh Đào

Cung Trầm Tưởng đặt chân đến Pháp vào đầu thập niên 1950. Ông ghi tên thi vào trường Kỹ sư Không quân ở Salon en Provence, ở miền Nam nuớc Pháp. Trong thời gian học ở Pháp từ 1952 đến 1957, sinh viên Cung Trầm Tưởng cũng hay về Paris và rất quen thuộc với khu Latin, khu trẻ trung và trí thức, nơi tập trung các cửa hàng sách lớn của Paris, các tiệm café, nơi có công viên Luxembourg, các giảng đường của viện Đại học Sorbonne, và đông đảo sinh viên đủ các nước. Nơi đó Cung Trầm Tưởng có một mối tình với một người bạn gái tóc vàng mắt xanh.

Một ngày đang giữa niên học, nàng nhuốm bệnh phải về quê tịnh dưỡng dài ngày. Chàng sinh viên thi sĩ tiễn nàng ra nhà ga để đáp một chuyến xe lửa về miền Provence.

Lên xe tiễn em đi

chưa bao giờ buồn thế

trời mùa đông Paris

suốt đời làm chia ly

Bài thơ “Chưa bao giờ buồn thế” đã được Phạm Duy phổ nhạc thành một bài hát mang tên “Tiễn em”. Cung Trầm Tưởng cũng nhắc đến mối tình đó khi nhớ lại những lúc bồi hồi chờ người yêu trong công viên Luxembourg dưới làn mưa thu:

Mùa thu Paris

Trời buốt ra đi

Hẹn em quán nhỏ

Rưng rưng rượu đỏ tràn ly

Mùa thu đêm mưa

Phố cũ hè xưa

Công trường lá đổ

Ngóng em kiên khổ phút, giờ

Mùa thu âm thầm

Bên vườn Lục-Xâm

Ngồi quen ghế đá

Không em buốt giá từ tâm

Mùa thu nơi đâu?

Người em mắt nâu

Tóc vàng sợi nhỏ

Mong em chín đỏ trái sầu

Mùa thu Paris

Tràn dâng đôi mi

Người em gác trọ

Sang anh, gót nhỏ thầm thì

Mùa thu không lời

Son nhạt đôi môi

Em buồn trở lại

Hờn quên, hối cải cuộc đời

Mùa thu! mùa thu

Mây trời âm u

Yêu người độ lượng

Trông em tâm tưởng, giam tù

Mùa thu!… Trời ơi! Tình thu!

Bài thơ “Mùa thu Paris” của Cung Trầm Tưởng đã được Phạm Duy phổ nhạc thành một bài hát cùng tên.

Mười năm sau Cung Trầm Tưởng, một sinh viên Việt Nam khác là Phạm Trọng Cầu cũng đặt chân đến Paris để theo học lớp đào tạo của Học viện Cao cấp Âm nhạc. Và ông cũng đã có một mối tình sinh viên giữa khung cảnh của khu Latin. Trong thời gian du học tại Pháp từ 1962 đến 1969, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã sáng tác bài “Mùa thu không trở lại” khi cuộc chia tay xảy ra vào mùa thu. Ông tâm sự: “Thời ấy mình có yêu một cô bạn gái có mái tóc đen dài, đôi mắt buồn vời vợi. Đối với tôi… là một mối tình xa xưa thời còn trai trẻ. Gặp nàng vào mùa xuân, mùa hạ tình nồng cháy và mùa thu nàng ra đi. Nàng về nước để từ đó không bao giờ trở lại Paris nữa. Hôm tiễn đưa nàng đi rồi, mình trở về, bước từng bước như người say rượu, ngang vườn Luxembourg. Khu vườn đó, khi tôi đi ngang, tôi chợt nhận ra mùa thu, vì chân mình đá rất nhiều lá vàng, trong tôi tự nhiên vang một giai điệu “Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại…” Dù là mùa thu ở Paris rất đẹp, nhưng mà từ mùa thu đó, với tôi, mùa thu không bao giờ trở lại nữa.”

Em ra đi mùa thu,

Mùa thu không trở lại.

Em ra đi mùa thu,

Sương mờ giăng âm u.

Em ra đi mùa thu,

Mùa thu không còn nữa.

Đếm lá úa mùa thu,

Đo sầu ngập tim tôi.

Ngày em đi,

Nghe chơi vơi não nề,

Qua vườn Luxembourg,

Sương rơi che phố mờ,

Buồn này ai có mua?

Từ chia ly,

Nghe rơi bao lá vàng,

Ngập dòng nước sông Seine,

Mưa rơi trên phím đàn,

Chừng nào cho tôi quên?

Hôm em ra đi mùa thu,

Mùa thu không trở lại,

Lá úa khóc người đi,

Sương mờ dâng lên mi.

Em ra đi mùa thu,

Mùa lá rơi ngập ngừng,

Đếm lá úa sầu lên,

Bao giờ cho tôi quên?

Phạm Trọng Cầu và Cung Trầm Tưởng đều đã có một thời gian du học tại Paris, vào một thời buổi mà ít có người có cơ hội xuất ngoại và du học sinh Việt Nam tại Kinh đô Ánh sáng cũng rất hiếm. Cả hai đều có một bài thơ nói về mùa thu Paris, với khung cảnh rất giống nhau: cũng công viên Luxembourg với lá vàng bay trong gió, cũng sương mù và bầu trời âm u, một bên thì buồn vì nàng đã ra đi, người thì khắc khoải chờ người yêu đến… Tác phẩm của Phạm Trọng Cầu là một bài thơ gồm những câu ngắn 5 chữ; nhà thơ cũng là nhạc sĩ nên đã phổ nhạc thành một bài hát rất được mến chuộng tại miền Nam trong các thập niên 60-70. Bài thơ của Cung Trầm Tưởng gồm những câu ngắn 4 chữ, được Phạm Duy phổ nhạc. Bài hát cũng rất được ưa thích. Trong cả hai bài đều phảng phất bầu không khí thơ mộng, lãng mạn, u buồn của thành phố Paris vào mùa thu với những cơn gió lạnh thổi bay lá vàng giữa cơn mưa lất phất.


Nét giống nhau dừng lại ở chỗ đó, vì Phạm Trọng Cầu và Cung Trầm Tưởng có những định mệnh khác hẳn, vì hai người ở hai bên chiến tuyến, một bên thắng cuộc và một bên thua cuộc.

Phạm Trọng Cầu và Cung Trầm Tưởng, hai người ở hai bên chiến tuyến

Phạm Trọng Cầu sinh năm 1935 tại Phnom Penh, Campuchia, nhưng nguyên quán ở Hà Nội. Năm 1943, gia đình ông trở về Sài Gòn, rồi về miền Tây sống tại quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1948, Phạm Trọng Cầu trở lại Sài Gòn, tham gia phong trào xuống đường đấu tranh của sinh viên học sinh. Một thời gian sau, ông thoát ly và đầu quân vào tiểu đoàn 308, rồi trung đoàn Cửu Long của lực lượng kháng chiến Việt Minh.

Trong một trận đánh với quân đội Pháp, ông bị thương phải cưa chân. Gia đình ông đã tìm cách đưa ông về Sài Gòn cứu chữa. Trong thời gian này ông viết ca khúc đầu tay “Trường làng tôi”.

Năm 1956, Phạm Trọng Cầu nhập học khoá đầu tiên của trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, mới được thành lập dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, ở số 112 đường Nguyễn Du, Sài Gòn. Sau khi tốt nghiệp, năm 1962 ông sang Pháp thi vào Học viện Cao cấp Âm nhạc Paris (Conservatoire National Supérieur de Musique). Tại đây, ông đã viết bản nhạc “Mùa thu không trở lại” được xem như là một trong những bài hát tiêu biểu của “dòng nhạc thính phòng” và được các ca sĩ thượng thặng của Sài Gòn trình diễn.

Năm 1969, Phạm Trọng Cầu về nước giảng dạy tại trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, tham gia các đoàn văn nghệ như Nguồn Sống, sinh viên Phật tử Vạn Hạnh… và bí mật hoạt động nội thành. Năm 1972, ông bị bắt và giam cho đến năm 1975.

Sau khi được trả tự do tháng 4-1975, Pham Trọng Cầu về công tác ở Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. Ông cũng phát động phong trào ca hát thiếu nhi, thành lập các nhóm hợp ca và sáng tác nhiều ca khúc cho thiếu niên.

Ông mất năm 1998 tại Sài Gòn. Ngày nay ở quận 9, trong một khu dân cư mới có một đường mang tên Pham Trọng Cầu.

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng sinh trước Phạm Trọng Cầu ba năm và đặt chân đến Pháp du học đúng 10 năm trước Pham Trọng Cầu.

Cung Trầm Tưởng sinh năm 1932 tại Hà Nội. Năm 1949, gia đình ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, ông học tiếp trung học tại trường Chasseloup-Laubat (sau đổi tên thành Jean-Jacques Rousseau rồi Lê Quí Đôn).

Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học, thi vào Trường Kỹ sư Không quân ở Salon-de-Provence, miền Nam nước Pháp. Trường này là một trong 5 trường đại học có qui chế quân sự có uy tín nhất của Pháp, cùng với Trường võ bị Saint-Cyr, Trường Bách khoa (Polytechnique), Trường Sĩ quan Hải quân và Trường Sĩ quan Cảnh binh. Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước phục vụ trong binh chủng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

Trong khoảng thời gian này, 6 bài trong tập thơ Tình ca của Cung Trầm Tưởng được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc: “Mùa thu Paris”, “Chưa bao giờ buồn thế”, “Bên ni bên nớ”, “Khoác kín”, “Kiếp sau”, “Về đây”.

Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng và lấy bằng tiến sĩ khí tượng học tại viện Đại học Saint-Louis, bang Missouri. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục phục vụ trong binh chủng Không quân VNCH với cấp bực cuối cùng là Trung tá. Sau biến cố 30-4-1975, ông bị bắt đưa đi cải tạo 10 năm. Sau khi được trả tự do, ông sang Hoa Kỳ định cư từ năm 1993.

Cung Trầm Tưởng và Phạm Trọng Cầu đều được biết gần như cùng thời gian với những bài hát trở thành bất hủ trong dòng nhạc thính phòng quí phái của miền Nam các thập niên 60-70. Cả hai đều đã một thời gian du học tại Pháp, Cung Trầm Tưởng học trong một trong những trường kỹ sư có uy tín nhất nước Pháp, còn Phạm Trọng Cầu được thụ huấn trong một Học viện Âm nhạc danh tiếng của châu Âu.

Năm 1975 là mốc định mệnh; một người thì ra tù sau ba năm bị giam, người kia thì vào tù cải tạo rồi bị giam giữ 10 năm.

Phạm Trọng Cầu tuy được đào tạo trong một Nhạc viện hàn lâm nhưng tác phẩm để lại rất ít. Tên tuổi của ông được nhớ đến chỉ nhờ có hai bài là “Trường làng tôi” và “Mùa thu không trở lại”, đều được phổ biến trong miền Nam vào những thập niên 60-70. Tuy ông đã tham chiến trong hàng ngũ Việt Minh và mất một chân trong một trận đánh, nhưng ông vẫn được nhận vào học trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn hình như không khó khăn lắm, và sau đó được phép đi du học tại Pháp, vào một thời điểm mà số sinh viên xuất ngoại du học rất ít. Sau khi Phạm Trọng Cầu bị bắt giam vào năm 1972 vì hoạt động gián điệp nội thành, hai bài hát “Trường làng tôi” và “Mùa thu không trở lại” vẫn được hát trên đài phát thanh, đài truyền hình, và được tự do phổ biến. Không có một lệnh cấm nào từ trên đưa xuống.

Chính sách văn hoá của chế độ VNCH vào các thập niên 60-70 tuy không có văn bản nào ghi xuống rõ ràng, nhưng có thể thấy được qua qui tắc làm việc của Giải thưởng Văn Chương Toàn quốc được thiết lập năm 1957. Tạp chí Văn Hữu số 21 do Bộ Văn Hoá miền Nam ấn hành năm 1962 có đăng một bài về “Lược sử Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc thời Đệ Nhất Cộng Hoà” (1954-1963). Tác giả bài viết cho biết là trong việc chọn các tác phẩm trúng giải có một nguyên tắc không thay đổi là không đòi hỏi một điều kiện nào về nội dung hay hình thức của các tác phẩm. Chủ tịch Hội đồng Giải Văn chương Toàn quốc lần thứ ba, học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã nêu lên tiêu chuẩn lựa chọn của Hội đồng là: “Tác phẩm được chọn sẽ là phản ánh của một nền văn hoá tự do, nghĩa là không bị bó buộc trong khuôn khổ của một hệ thống tư tưởng nào, hay phải theo một khuynh hướng văn nghệ hay chính trị nào cả”.

Cũng do một chính sách văn hoá nhân văn và cởi mở như vậy mà các bài hát của Phạm Trọng Cầu còn được nhớ đến, cũng như những thơ văn tiền chiến hay thời kháng chiến chống Pháp của Xuân Diệu, Huy Cận, Quang Dũng, Hữu Loan… những ca khúc tình cảm hay chiến đấu của Phạm Duy, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Tý, Văn Cao, Lưu Hữu Phước… vẫn được tự do phổ biến và thưởng thức, dù tác giả còn sống hay đã chết, đang sống ở miền Nam hay miền Bắc.

Tưởng cũng nên nhắc nhở đến tính cách hết sức ôn hoà, vô tư và rộng lượng của một chính sách văn hoá áp dụng ngay trong lúc đang diễn ra một cuộc chiến khốc liệt nhất, một chính sách phục vụ cho một nền văn hoá nhân bản đích thực, không để cho hận thù và ý thức hệ chính trị chi phối.

Vĩnh Đào

(Ghi chú về tác giả Vĩnh Đào, Tiến Sĩ Văn Học Pháp, Viện Đại Học Paris IV-Sorbonne)



Tuesday, October 4, 2022

SƠ NGUYỆT

 



Rằm tháng Tám Trung thu đã qua hơn hai tuần, mau thật. Đầu tháng Chín (Âm lịch) mới chiều tối đã thấy ánh trăng thượng huyền treo trên ngọn hàng cây sau vườn, chợt nhớ câu thơ 

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung 

Bán tự ngân câu bán tự cung 

( Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ ảo

Nửa như móc câu bạc, nửa như cánh cung) 


Hai câu thơ này thầy Trần Trọng San có ghi lại trong quyển Đường Thi về một truyền thuyết khá lãng mạn có liên quan đến bài thơ Đường nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.  

Truyền thuyết kể rằng vào một đêm sư cụ trụ trì chùa Hàn San, nhìn vầng trăng thượng tuần chợt cảm hứng nghĩ ra hai câu thơ:

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung

Bán tự ngân câu bán tự cung”

Thao thức mãi trong phòng mà sư cụ không nghĩ ra hai câu tiếp. Tự nhiên có tiếng gõ cửa. Thì ra là chú tiểu cũng trằn trọc vì 2 câu mà chú mới nghĩ ra:

“Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn

Bán trầm thuỷ để bán phù không

nhưng cũng không làm tiếp được và xin thầy giúp. Nghe xong, sư cụ mừng quá, quỳ xuống tạ Phật. Vì quả thật 2 câu thơ của chú tiểu ăn khớp với 2 câu của sư cụ, thành bài tứ tuyệt mà Trần Trọng San đã dịch như sau:

Mồng ba, mồng bốn, trăng mờ

Nửa dường móc bạc nửa như cung trời

Một bình ngọc trắng chia hai

Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không

Làm xong bài thơ này lúc nửa đêm, sư cụ bảo chú tiểu đánh chuông tạ ơn Phật. Tình cờ đêm hôm đó trên thuyền, thi sĩ Trương Kế cũng không ngủ được vì không nghĩ được câu tiếp cho hai câu “Nguyệt lạc ô đề...” Tự nhiên chuông chùa Hàn San đổ đến, gợi hứng cho thi nhân hoàn tất bài Phong kiều dạ bạc “...Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền...”

Chùa Hàn San là một ngôi chùa hẻo lánh ngoài thành Ngô Huyện thuộc tỉnh Giang Tô. Xung quanh bát ngát rừng mai, phía sau dòng sông xanh ngắt lững lờ uốn khúc, giữa hai dãy núi sừng sững vươn mình trong làn mây trắng xoá. Chùa ở bên cầu có cây phong nên gọi là Phong Kiều. Trên sông đêm có ánh lửa chài. Bài thơ của Tần Thục đời Tống có câu: “Ô đề nguyệt lạc kiều biên tự” (Quạ kêu trăng xế chùa bên cầu) và thơ Khang Hữu Vi đời Thanh, có câu “Lãnh tận Hàn San cố tự phong” (Lạnh đến cả cây phong bên chùa cổ Hàn San) đều nói rõ chùa Hàn San bên cầu có cây phong.” 

Trương Kế, một nhà thơ thời Trung Đường đã viết bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm đậu thuyền trên bến Phong Kiều) vào năm 756 cách nay gần 7 thế kỷ 

Bài thơ như sau: 

Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,

Giang phong ngư hoả đối sầu miên.

Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Dịch nghĩa

Đêm đậu thuyền trên bến Phong Kiều

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.

Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ, vẻ buồn sầu.

Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,

Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.

Tản Đà dịch thơ 

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,

Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.

Thuyền ai đậu bến Cô Tô,

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Cái câu “Dạ bán chung thanh” (Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa) đã gây tranh cãi trong thơ vì có chùa nào lại gióng chuông lúc nửa đêm để nhà thi sĩ thao thức trong thuyền nghe chuông khuya mà cảm tác thành thi. Thế nên mới có truyền thuyết “Sơ tam, sơ tứ…”

Ôi! , nguyệt lạc ô đề, trăng tà tiếng quạ… náo động hồn ta trong đêm sơ nguyệt 

Lại liên ý đến Tô Đông Pha

“ Khuyết nguyệt quải sơ đồng,

Lậu tận nhân sơ tĩnh.

Thuỳ kiến u nhân độc vãng lai,

Phiêu diểu cô hồng ảnh. 

(Trăng sơ huyền treo trên ngọn ngô đồng thưa lá.

Trời khuya, người bắt đầu vắng, chỉ nghe tiếng tí tách của đồng hồ

canh chừng giờ đêm

Chỉ thấy ẩn sĩ một mình đi lui đi tới

Thấp thoáng như bóng chim hồng lẻ loi) 


Trăng khuyết vương nhánh ngô đồng 

Trời khuya người vắng đêm dần dần vơi 

Một mình ẩn sĩ  tới lui 

Như chim hồng bóng lẻ loi in mờ 

mnc 

Trăng sơ huyền, khuyết nguyệt, nguyệt lạc ô đề đến nguyệt ca … là hết một đêm lang thang trong thơ nhạc 

“Từ khi trăng là nguyệt tôi nghe đời gõ nhịp ca 

Từ em thôi là nguyệt coi như phút đó tình cờ “

mnc 

3/10  









.




3/10