Wednesday, March 31, 2021

NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI THẦY

Tôi vào Đại học Sư phạm Saigon ngày 18. Lúc đó, tuổi thành niên là 21. Tôi không đủ tuổi để nói chuyện với chính phủ(!) nên Ba tôi phải ký giấy cam kết hoàn lại toàn bộ số tiền học bổng mà chính phủ sẽ cấp cho tôi, sinh viên Sư phạm trong suốt học trình 4 năm nếu tôi bỏ nhiệm sở trước khi hết hợp đồng 10 năm. Lúc đó ký là ký thôi. Ba tôi và tôi không thắc mắc tại sao lại có chuyện cam kết này.

Sau này tôi mới vỡ lẽ ra là vì tình trạng chiến tranh, có thể chúng tôi rơi vào những nhiệm sở thuộc vùng “xôi đậu“ bất ổn nên tờ giấy cam kết đó là sợi dây buộc chặt chúng tôi để khỏi... đào nhiệm!

Tôi vào Sư Phạm vì vâng lời Ba tôi. Ba muốn tôi có việc làm chắc chắn sau khi ra trường chứ ông không muốn tôi phải vác bằng cấp long đong đi xin việc, hơn nữa, theo Ba tôi, dạy học là một nghề hiền lành, thích hợp với tôi, một con bé nhút nhát, chậm chạp!

Tôi không mấy hứng thú nhưng không dám cãi lời Ba và cũng vì ham áo mũ ra trường, coi rất bảnh( khiếp ! chưa vào học mà đã tính chuyện tốt nghiệp!) và số tiền học bổng ba ngàn mỗi tháng nên “cũng liều... nhắm mắt đưa chân , mà xem con tạo xoay vần đến đâu “

Năm tôi vào trường thì thầy Trần văn Tấn, Tiến sĩ toán, tốt nghiệp ở Pháp là Giáo sư khoa trưởng. 

Ở Sư Phạm, tôi gần như không biết đại giảng đường là gì, chỉ trừ hai kỳ thi bán niên thì chúng tôi mới tập trung vào đại giảng đường (nhỏ xíu!) để thi cùng với sinh viên của các ban khác gồm Sử Địa , Anh văn, Pháp văn. Còn xuân thu nhị kỳ chúng tôi chỉ quanh quẩn trong lớp học của bốn mươi sinh viên .


Những ngày đầu ở Sư Phạm , tôi không vui vì ít ra một năm Văn Khoa cũng đã cho tôi cảm giác tự do, thoải mái mà tôi chưa bao giờ được hưởng. Ở Văn Khoa, muốn đi học thì đi, không thì thôi, chỉ cần mua sách( cours) về học, tới kỳ thi thì lại là kiếp con tằm... nhả tơ. Nhưng Sư Phạm thì không, chúng tôi là những “ công chức” tương lai nên mỗi ngày phải đi học hai buổi sáng chiều, tám tiếng! Cứ mỗi hai giờ thì văn phòng sinh viên vụ lại đưa sổ điểm danh lên để sinh viên ký tên. Chúng tôi vẫn nói đùa là chữ ký của mình là chữ ký bằng vàng vì trường căn cứ vào đó mà phát học bổng! 


Trường chúng tôi gồm hai dãy lầu cũ, ngăn cách bằng một sân cờ với hai thảm cỏ nhỏ. Tôi nghe nói, niên khoá đầu tiên của chúng tôi ở Sư phạm Saigon, trường chỉ có 900 sinh viên cho cả hai khối :nhân văn( khoa học xã hội gồm Việt Hán, Anh văn, Pháp văn và Sử Địa) và khoa học ( khoa học tự nhiên: Toán, Lý Hoá và Vạn vật). “ Hàng xóm” của chúng tôi là Trung học Petrus Ký, mặt tiền ở ngay đường Cộng Hoà, đối diện Tổng nha Cảnh Sát Quốc gia, kế đó là Đại học Khoa học. Tôi yêu Đại học Sư phạm vì khung cảnh êm ả, không như ngày Văn khoa , sinh viên quá đông!


Ở Sư phạm, tôi có cảm tưởng đang học trung học khi thầy gọi đọc bài, chúng tôi cũng phải đem tập lên bàn thầy, đứng vòng tay đọc bài!

Các thầy cô phụ trách giảng dạy chúng tôi cũng tương đối trẻ. Giáo sư lớn tuổi nhất của chúng tôi năm ấy là thầy Trương văn Chình. Thầy Chình dạy môn Văn phạm. Điều làm tôi nhớ thầy mãi không phải là những bài giảng của thầy mà là vẻ... đẹp trai, ô không, vẻ đẹp lão của thầy!

Nguyễn tấn Diệu Tâm, bạn thân của tôi và tôi cứ nhìn thầy xuýt xoa  “Chu cha, thầy ơi! Thầy ăn chi mà thầy đẹp dễ sợ rứa? Chừ thầy già rồi mà còn đẹp cỡ ni, khi trẻ chắc có lắm cô chết vì thầy! “. Và dĩ nhiên đó chỉ là những lời tán dương vẻ đẹp “khuynh thành “của thầy mà hai đứa tôi chỉ dám nhỏ to sau lưng thầy!

Mà phải công nhận, thầy tôi đẹp thật!

Buổi học đầu tiên thầy kể cho chúng tôi nghe sơ về gia thế của thầy. Trước kia, thầy là Tổng giám đốc Bưu điện Saigon và thẩy có một người con trai đang đi học ở Úc, ngành kỹ sư đóng hộp. Sau này, bọn tôi thấy thầy có vẻ để ý ưu ái Thu Vân, bạn đồng môn của chúng tôi nên cả lũ hùa nhau chọc Thu Vân” Thầy chấm mày làm ... con dâu rồi đó! Mai mốt thầy sẽ... đóng hộp mày, gửi qua Úc! “ vả chúng tôi lăn ra cười mặc cho Thu Vân lúng túng, muốn khóc! 

Nhưng rồi thế cuộc đổi thay nên Thu Vân không bị “đóng hộp “ đi Úc mà hiện nay bạn đã là tiến sĩ, phó giáo sư đại học sư phạm thành hồ!


Rồi chúng tôi có thầy Phan Hồng Lạc là giáo sư môn Hán văn. Thầy trẻ, hiền và cười với sinh viên hoài!

Ngoài ra, thầy còn là giáo sư hướng dẫn thực tập của chúng tôi trong bán niên đầu.Thầy ân cần dặn dò chúng tôi từng chút một. Với các nữ sinh viên, thầy nhắc chúng tôi đánh phấn hồng để che nét mặt xanh tái, bối rối khi lên bục giảng!

Thầy dịu dàng phân tích những ưu, khuyết điểm của chúng tôi trong giờ thực tập và không bao giờ thầy nỡ xuống tay với sinh viên! Thầy ơi! Bao nhiêu năm qua, không còn được gặp thầy nhưng bao giờ nghĩ đến các thầy cô, thì thầy vẫn là một trong những hình ảnh rất đáng quý, đối với em, thưa thầy!

Thầy biết không, ngày đó, sinh viên Việt Hán một chúng em đã ưu ái tặng thầy biệt danh:”Hoà thị chi bích”, theo đề bài Hán văn đầu tiên thầy dậy chúng em: Viên ngọc của người họ Hoà.


Nói đến thầy Phan Hồng Lạc là phải nhắc tới thầy Lê Hữu Mục. Thầy Mục giảng dạy môn chữ Nôm. Thầy mập,giọng thầy ồm ồm, mới thoạt nhìn, tôi rất sợ! Nhưng thật ra, thầy Mục dễ thương lắm. Thầy tận tâm giảng dạy. Môn chữ Nôm là môn học mới mẻ và khá khó nuốt(!) vì để học được chữ Nôm thì chúng tôi phải biết chữ Hán đã, do chữ Nôm được cấu thành từ chữ Hán... 

Thầy Mục có lẽ cũng hiểu chúng tôi đa số chỉ mới học Hán văn năm Dự bị Văn chương Việt Nam ( ở Văn khoa) nên vốn liếng chữ Hán cũng rất còm cõi do đó thầy dạy chậm, giải thích tường tận, nhờ vậy chúng tôi cũng đỡ vất vả. Nhớ có lần thầy bảo cả lớp viết tên thầy bằng chữ Hán, tất cả chúng tôi đều viết chữ Mục là con mắt! Lê hữu Mục là... ông Lê có mắt! Thầy đã lắc đầu, mắng chúng tôi “ Dốt! Dốt! Mục của thầy là hoà thuận chứ không phải là con mắt!”


Ngoài ra, thầy Mục còn là một vĩ cầm thủ tài hoa! Thầy rất nghệ sĩ! Thỉnh thoảng thầy hát cho trò nghe và thầy cũng bảo chúng tôi hát cho thầy bạn cùng nghe. Thầy Mục của con! Thầy Mục của những ngày chữ Nôm và tiếng hát sinh viên!


Bên cạnh các thầy Phan Hồng Lạc, Lê hữu Mục là hai giáo sư Phạm văn Diêu và Phạm văn Đang. Hai thầy cùng họ, cùng chữ lót tưởng như anh em ruột nhưng thật ra không phải, thầy Diêu người trung, thầy Đang người bắc. Cả hai thầy chia nhau dạy chúng tôi phần Văn học Lý Trần. Thầy Diêu còn dạy thêm phần văn học dân gian. Thầy Diêu viết văn hay lắm, văn của thầy là một bài thơ!

Thầy Đang còn trẻ !Tôi đoán thầy chỉ ngoài ba mươi một chút thôi! Thầy vui tính và tôi là sinh viên được thầy ưu ái vì tính tôi ... lẩm cẩm, thích tìm đọc những điển cố Trung hoa nên tôi đã trả lời được khi thầy hỏi “tại sao gọi là chín suối? Tại sao Cao Bá Quát lại có hiệu là Chu Thần ?”...

Thầy Đang dễ chịu bao nhiêu thì thầy Diêu lại khó tính bấy nhiêu. Thầy hay rầy chúng tôi vì những “ lỗi” không do chúng tôi cố ý gây ra, thầy mới đến ngưỡng cửa lớp mà nếu chúng tôi chưa thấy, không kịp đứng lên chào là bị thầy “ dũa” te tua! Thầy Diêu cũng” biết mình biết ta” lắm(!) nên có lần thầy cay đắng bảo chúng tôi “ Ngày các anh chị ra trường, đừng mời tôi dự tiệc! Tôi biết các anh chị không ưa tôi nhưng đã phải chịu đựng tôi trong bấy nhiêu năm học, bây giờ, còn những giờ phút cuối, tôi phải tránh mặt đi để cho các anh chị thoải mái! “Nhìn vẻ mặt buồn bã của thầy khi nói, tôi bỗng thấy xót xa nhưng tận thâm tâm, tôi vẫn tự hỏi “ sao thầy không thể thân ái với chúng tôi như các thầy cô khác? Tại sao thầy phải khắt khe với chúng tôi để thầy buồn và chúng tôi cũng không vui?”


Thầy Diêu buồn thì thầy Nguyễn sĩ Tế lại vui, rất vui! Những giờ Văn học Phương Tây với thầy tràn ngập tiếng cười! Thầy đã được chúng tôi tặng biệt danh” ông cố vấn dung nhan “ và biệt danh này chỉ luân lưu trong phạm vi sinh viên chúng tôi. Số là,khi thầy dạy tác phẩm “ Trưởng giả học làm sang”( Les bourgeois gentilles hommes) của Molière, thầy giảng những bà nhà giàu mới nổi, thích làm sang và để tỏ ra ta đây thuộc hàng danh giá, tách biệt khỏi giới bình dân thì họ cũng đổi cách ăn nói, chẳng hạn cái gương soi mặt ( le miroir) thì họ lại gọi là cái cố vấn dung nhan (le conseil de la beauté!) và thế là từ đó thầy có tên...! Ngoài ra, tôi còn nhớ hễ mỗi khi thầy đang giảng mà bỗng cúi xuống là sinh viên cũng lo lật đật ...cúi theo... để ghi cours cho kịp vì thẩy nói nhanh lắm! 

Chúng tôi học với thầy Tế hai giờ cuối, ngày thứ hai và lúc nào cũng vậy, tôi ra về với một nụ cười!

Cô Nguyễn thị Xuân Lan là nữ giáo sư duy nhất của chúng tôi, Việt Hán một - Pháp văn trong bán niên đầu. Tên sao người vậy! Cô người Huế, cô là biểu tượng dịu dàng, khả ái của núi Ngự sông Hương! Ngày đầu tiên cô đã cho chúng tôi được chọn bài học, cả lũ đã nhao nhao xin cô cho học tình thư lãng mạn, và bức thư tình đầu tiên cô dạy là tình thư của Napoléon gửi cho Joséphine. Tôi còn nhớ có lần cô dạy chữ dépeupler, nghĩa là làm cho bớt người, giãn dân...và cô giảng chữ này trong một câu thơ của Lamartine: “Un seul Etre vous manque et tout est  dépeuple. (tạm dịch: vắng một người cả trời đất đều hoang vu!) Hay quá là hay!


Thầy Lê thanh Hoàng Dân và thầy Trần Công Thiện phụ trách môn Tâm lý giáo dục. Buồn ngủ ơi là buồn ngủ! Thầy Lê thanh Hoàng Dân cũng được chúng tôi nghịch ngợm “phong tặng” là “ông... tâm bệnh”(!) vì bài giảng của thầy lúc nào cũng là tâm bệnh, nghe một hồi tôi cũng muốn bị ... tâm bệnh luôn!


 Thầy Giản Chi Nguyễn hữu Văn dạy môn Triết Đông. Thầy hiền ơi là hiền và thầy cho chúng tôi cảm tưởng như đang được nghe  thầy kể chuyện đời xưa. Thầy là một trong những vị thầy khả kính của chúng tôi!

 

Thầy Lê Ngọc Trụ là vị giáo sư cuối cùng trong danh sách các giáo sư giảng dạy của bán niên một. Thầy phụ trách môn Ngữ âm mà bây giờ thì tôi không còn nhớ gì cả! Chỉ nhớ thầy cũng như thầy Giản Chi, rất hiền!

 Bán niên hai, cô Khưu Sĩ Huệ thay thế thầy Phan Hồng Lạc dạy chúng tôi môn Hán văn. Cô là biểu tượng Lương sư Hưng quốc! Cô không bao giờ đi trễ và cũng không bỏ buổi dạy nào. Cô thương học trò nhưng cô rất nghiêm. 

 Hai giờ đầu,chiều thứ hai là giờ Hán văn. Buổi sáng, chúng tôi đã ngất ngư với bốn giờ Văn học Lý- Trần và Văn học dân gian! Đến chiều là bắt đầu uể oải, hơn nữa trời Saigon nóng nực khiến mắt chúng tôi cứ muốn nhíp lại...nhưng buồn ngủ cách mấy cũng phải ráng trợn mắt mà nuốt cho xong cái mớ chữ Hán hỗn độn! 

 Một lần, giờ Hán văn của cô Khưu sĩ Huệ, lớp tôi có đến khoảng ba, bốn bạn đi trễ! Cô giận lắm nhưng cô chỉ ôn tồn nói: “Các anh chị phải biết, các anh chị ở trường này để được đào tạo thành thầy cô. Các anh chị nghĩ thế nào nếu mai này, tới giờ dạy,các anh chị  đã ở trên bục giảng mà cứ năm phút một đứa học trò đi vào, năm phút sau lại đứa kế tiếp...?” Tất cả chúng tôi cúi gằm mặt xuống, im lặng! Từ đó về sau, giờ thầy cô nào còn dám đi trễ chứ giờ cô Khưu sĩ Huệ thì đố...! Chưa tới giờ đã đủ mặt ...bá quan văn võ!

 Cô Khưu sĩ Huệ không giảng dạy theo lối thường như các thầy cô khác. Cô tập cho chúng tôi tinh thần tự tìm tòi, học hỏi. Có lần cô cho đề bài “Tuần sau chúng ta sẽ học động từ “vi” Các anh chị về tự học và mỗi người ít nhất làm cho tôi bốn câu có chữ “vi”( chữ vi là động từ là, như động từ to be trong tiếng Anh hay être của tiếng Pháp).

 ◦ Thứ hai sau đó, cô kêu bốn đứa đầu tiên lên bảng và tôi “ hân hạnh” nằm trong bảng “ phong thần “ của cô! 

 Tấm bảng lớn của lớp được chia làm bốn. Trần Phú Lai, mà chúng tôi vẫn nghịch ngợm đọc lái tên là Phái Lu, tôi và hai bạn nữa mà tôi quên mất là ai.

 Chúng tôi hí hoáy viết. Sau đó, cô bảo chúng tôi đọc lớn bài làm của mình cho cả lớp nghe. Câu của “Phái Lu” là: Ngã vi bần sĩ!(nghĩa là: tôi là học trò nghèo!), cô nhăn mặt! Đến phiên tôi: “ Vi nhân, mạc vô tử!”( là người ai mà chẳng chết!), cô lắc đầu! Và hai bạn sau tôi cũng những câu hắc ám, bi quan tương tự. Cô chán nản! Cô hỏi “ Phái Lu”: anh tên gì?

 - Thưa cô, em tên Trần Phú Lai.

- Anh viết tên anh ra coi( dĩ nhiên là viết tên chữ Hán), xong cô bảo “Phái Lu” dịch tên hắn ra, xong cô la:

 - Cha mẹ anh đặt cho anh cái tên hay như vậy nghĩa là ông bà muốn sự giàu có đến cho anh hà cớ gì anh lại nói “ tôi là học trò nghèo?!” Xong đời “Phái Lu”!

 Đến phiên tôi, sau khi tôi đọc và dịch xong phần bài làm của mình, cô nghiêng đầu nhìn tôi và hỏi:

 - Chị mấy tuổi?

 - Thưa cô, con 18!

 - Chị còn quá trẻ! Sống chưa được bao nhiêu sao đã lo chuyện chết! 

 Tôi đứng yên! Tàn đời!

 Hai người bạn sau cũng đồng cảnh ngộ như Phái Lu và tôi!

 Sau đó, cô bảo tất cả chúng tôi viết tên mình và nạp cho cô.

 Tuần kế, cả lớp đều “!thoát nạn”! Chỉ trừ Tuyết Lệ! Cô hỏi Tuyết Lệ:

 - Chữ Lệ nghĩa là gì?

 - Thưa cô, nước mắt!

 - Chị nghĩ sao mà lại viết như vậy? Bộ khi sinh chị ra, ba má chị buồn lắm à?

 Chị có biết nghĩa khác của chữ lệ không?

Tuyết Lệ ấp úng:

 - Thưa cô, không!

 - Lệ có nghĩa là đẹp đẽ như diễm lệ, tráng lệ...

 Và cứ thế, cuộc đời sinh viên của chúng tôi khi chìm khi nổi cho đến một ngày...

 Ngày 30.04.1975!

 - Thưa các thầy cô!

 - Con, học trò của các thầy cô đã bao nhiêu năm rồi! Ngày 30.04.1975, nước mất và nhà tan. Thầy cô và chúng con tan tác,theo mệnh nước nổi trôi. 

 Mệnh nước trầm luân 

 Mệnh người phiêu bạt!

 Ngày vào Sư phạm, con mang ước vọng cũng như quý thầy cô, đem kiến thức đã được truyền thụ để hướng dẫn các thế hệ đàn em, làm cho các em hiểu, yêu mến tiếng Việt, văn chương Việt, tự hào về dân tộc mình. Nhưng thầy cô ơi! Con đã không làm được điều quý thầy cô đã kỳ vọng ở chúng con! Con rất buồn! Nhưng biết làm sao hơn được!

 Giờ này, sau bao cuộc bể dâu, quý thầy cô và chúng con chắc cũng khó lòng mong một ngày trở về, đoàn tụ dưới mái trường Sư phạm thân yêu. Quý thầy cô, nếu còn thì cũng đã quá trọng tuổi và nhiều thầy cô đã trở về với cát bụi! Những Lương sư đã không thấy được ngày Hưng Quốc! Đau lòng xiết bao!

 Giờ đây, con cũng như các bạn bè chỉ xin kính chúc các thầy cô còn hiện diện với chúng con hai chữ an khang và với quý thầy cô đã đi vào cõi thiên thu, con nguyện xin Thượng Đế  đưa các thầy cô của chúng con về miền Vĩnh phúc. 

 Và chúng con xin chân thành cảm tạ công ơn giáo dục của quý thầy cô cho chúng con được như hôm nay. Có thể, chúng con không thành công nhưng ít ra, các thầy cô có thể mỉm cười khi biết chúng con, lớp hậu sinh của quý thầy cô đã thành nhân và câu châm ngôn “Lương sư Hưng quốc “, với riêng con, vẫn là điều tâm niệm mãi mãi!


 Kính và thương !

 Con,

 Vũ hoàng Hoa 

 

Tuesday, March 23, 2021

MỘT ĐOẠN THÁNG BA

 Đoạn buồn tháng Ba xưa 

Đoạn buồn này đoạn tháng Ba 

Mỗi năm trở gió lòng ta lại buồn 

Đời như con nước xa nguồn 

Thời gian âm vọng tiếng cồng chiêng xưa 

Nhớ rừng nhớ núi mù mưa

Nhớ đồng đội cũ mà chưa lần về 

Bạc mầu áo trận mỏi mê 

Giày saut mòn gót sơn khê thuở nào 

Trong mơ gối súng chiến hào 

Đời như đóm  hỏa châu vào đêm đen

Tháng Ba lệnh lạc lèng èng

Quân hồi đoạn chiến vô phèng chán chê 

Một đoàn  tan tác thảm thê 

Trên con lộ máu 7 B năm nào 

Buông súng gãy, cởi chiến bào 

Kẻ chết người sống đi vào tù gông 

Còn nuôi hy vọng viễn vông 

Tầng đầu địa ngục là không đường về 

Thế là từ đó ê chề 

Tháng Ba gãy súng  não nề tâm can 

Vì đâu xẻ nghé tan đàn

Đoạn trường từ ấy bàng hoàng hờn căm 

Khúc buồn này khúc Bảy Lăm

Triệu hồn oan khuất mỗi năm lại về 

15/3/21

mai cao nguyên 


💥

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân

Phạm Tín An Ninh

 

Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng sinh viên sĩ quan Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ tai nhỏ” như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ” ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là “may còn có anh đời còn dễ thương”. Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!

Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc, một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng , đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau, ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị biệt động quân chống trả kiên cường, nhưng địch quá đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa!

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7..

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.


Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.


Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.


Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng

Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây

Rõ ràng hoa rụng hương bay

Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới hơn 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng Biệt Động Quân mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:

- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

- Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu:

- Tao là thằng Ksor Tlang,

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:

- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá !

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì? - Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu. - Có anh em không? - Không.- Anh có nhớ ngày sinh không? -Không

(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)

- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?

- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà. - Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?

 

(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)

- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:

- Cha mẹ anh đang ở đâu? - Buôn Ban Ma Dek .

(Gã công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)

- Anh ở chung với cha mẹ anh?- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con. - Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.

Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.

Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực:

- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

- Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về phía khu rừng.

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ vừa lên bốn tuổi.


Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?


Phạm Tín An Ninh

(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)

14/01/2010

Saturday, March 20, 2021

Tháng Ba và người lính cũ




Mỗi năm đến tháng ba

Lại có người lính già 

Trầm ngâm bên trang sách

Nhớ năm tháng đã xa 


Trên tầng đầu địa ngục 

Cao nguyên dạo tháng Ba 

Từ mùa xuân binh lửa 

Của cuộc chiến đã qua


Máu và máu và máu 

Từ buồng tim rứt ra 

Bao oan khiên chồng chất 

Như nứt thịt nứt da 


Máu đỏ nước sông Ba  

Máu láng lênh lộ Bảy 

Trong xó rừng nương rẫy 

Ngập ngụa đèo Tuna


Như vết xích  chiến xa 

Hằn sâu trong ký ức 

Nhức nhối khi tháng Ba

Trở về từ tiềm thức 


Nửa thế kỷ dần qua

Nỗi đau cũng nhạt nhoà 

Những vết thương chiến trận

Những giọt buồn tháng Ba 


MNC 

20/3

Friday, March 19, 2021

TỐNG BIỆT


  “Ðãn khứ mạc phục vấn. 

   Bạch vân vô tận thì” (Vương Duy)

   (Bạn đi ta chẳng hỏi

    Đầy trời mây trắng bay) 



Tiễn người nghiêng chén rót về Đông

Rượu như sương tỏa ánh mây hồng

Cả một hoàng hôn trong hơi rượu

Ta tiễn người  đi ! Có buồn không 


Tiễn người nghiêng chén rót về Tây 

Mưa Tây Sơn! nước đã dâng đầy

Khà lên hơi rượu câu tống biệt 

Mà đôi mái tóc ngả mầu mây


Tiễn người nghiêng chén rót về Nam

Trời Nam cuồn cuộn sắc khói lam 

Bốn trời mờ mịt mây cố xứ

Dục phá thành sầu vẫn chưa tan


Tống biệt rượu nghiêng về Bắc phương 

Người đi một bước luống đoạn trường

Cười lên một trận buồn nghiêng ngả

Lệ phong kín nỗi, lệ như sương 


Đưa người rượu rót khắp tứ phương 

Màu men màu mắt rợn nghìn chương

Tiễn người!  ta tiễn ta ! luôn thể

Cười lên nghiêng ngửa cõi vô thường


Mai Cao Nguyên


3/19

Tuesday, March 16, 2021

Tống tăng quy Nhật Bản . Tiền Khởi, Đường Thi

  

送僧歸日本

上國隨緣住,
來途若夢行。
浮天滄海遠,
去世法舟輕。
水月通禪寂,
魚龍聽梵聲。
惟憐一燈影,
萬里眼中明。

錢起


Tống tăng quy Nhật Bản 


Thượng quốc tùy duyên trụ,
Lai đồ nhược mộng hành.
Phù thiên thương hải viễn,
Khứ thế pháp chu khinh.
Thuỷ nguyệt thông thiền tịch,
Ngư long thính Phạm thanh.
Duy liên nhất đăng ảnh,
Vạn lý nhãn trung min

Tiền Khởi


Tiễn sư về Nhật Bản 

Tùy duyên nơi thượng quốc
Như mộng thuận đường trôi
Biển xa trời mây biếc
Thuyền Pháp nhẹ xa khơi
Ý Thiền soi trăng nước
Lời Kinh cá lắng nghe
Chỉ một đèn một bóng
Soi thấu đến muôn đời

Cao Nguyên

Khê cư tức sự . Thơ dịch Đường thi

 


溪居即事

籬外誰家不系船,
春風吹入釣魚灣。
小童疑是有村客,
急向柴門去卻關。 

崔道融


Khê cư tức sự

Ly ngoại thùy gia bất hệ thuyền,
Xuân phong xuy nhập điếu ngư loan.
Tiểu đồng nghi thị hữu thôn khách,
Cấp hướng sài môn khứ khước quan.

Thôi Đạo Dung 


 

Cảnh  bên khe suối 

Thuyền ai ngoài giậu quên neo,
Gió xuân thổi dạt trôi theo vào đầm.
Trẻ con ngỡ khách đến thăm,
Chạy ra mở vội gióng then cổng rào.

 

Cao Nguyên  

 maingoccuong 

 

Thursday, March 11, 2021

QUYỂN SÁCH CHÉP TAY

Trần Duy Phiên 


1.

Một ngày làm cỏ mệt bở hơi tai, tôi vừa vác cuốc về tới nhà, thằng bé hàng xóm đang ôm vở chờ ở hiên.

- Có việc gì không cháu? -Tôi hỏi, lao cuốc vào bụi chuối sát hè.

Thằng bé ngập ngừng, theo tôi vào nhà.

- Cháu có điều không hiểu muốn chú chỉ giúp cho - Nó nói, ngồi xuống chiếc ghế con, mở vở đặt lên giữa hai bắp đùi - Câu này, chú à.... - Ngón tay lấm mực tè ra trên mặt giấy, nó ngẩng mặt nhìn tôi.

- Thì đọc to lên đi! - Đang thay áo bên trong liếp cửa, tôi giục, mình mẩy đang lúc rít rát mồ hôi.

- “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” - Nó lại ngẩng mặt chờ tôi.

Tôi không thèm nhìn theo ngón tay nó nữa. Ba mươi năm trước, tôi đã thuộc nằm lòng. “Mai cốt cách, tuyết tinh thần. Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, hai câu thơ Đoạn Trường Tân Thanh hiện lên trong trí tôi rõ như hai người đẹp.

- Thúy Kiều, Thúy Vân đó mà! - Tôi cười, bước ra khỏi liếp cửa buồng kéo ghế ngồi bên thằng bé.

- Cháu cũng biết như thế - Nó lại ngước nhìn tôi, ngập ngần - Nhưng thưa chú... Nhưng mà... cái chữ “mai” này này!

Hiểu rõ yêu cầu của thằng bé, tôi giải thích:

- “Mai” ở đây là giống cây có hoa trắng hoặc vàng, ra bông vào độ cuối đông đầu xuân. Thơ biểu tượng, tác giả muốn ví von thân dáng mảnh khảnh của người đẹp như vóc mai khẳng khiu.

Thằng bé khẽ gật đầu, thỏa mãn, vui vẻ ra về. 

 

2.

Thằng bé ra về, tôi bắt đầu buồn bực...

Cũng như mọi người, lớn lên tôi đã cố học lấy một nghề mình yêu thích. Không tính tháng ngày lê la ở mẫu giáo và một vài năm thi cử lận đận, năm năm tiểu học, sáu năm trung học, bốn năm đại học, tôi ra trường làm nghề dạy học.

Đứng lớp, cầm phấn, kiếm sống bằng hơi sức chưa tới mươi năm, tôi đành thôi ngang... Tờ đơn thấm đẫm nước mắt xin nghỉ việc tôi gởi tận tay cha nó. Ngày ấy anh Hoàng vừa ở núi xuống, còn khỏe mạnh, giữ chức hiệu trưởng. Anh quản lý nhà trường như một chính ủy cầm quyền tư lệnh. Anh dồn dập rót vào đầu chúng tôi và buộc chúng tôi giội lên đầu học trò những tràng kế hoạch, phương án, biện pháp, triển khai, tiến công, quán triệt, khẩn trương, theo dõi, bám sát, truy diệt...

Về lớp, chúng tôi không thấy kẻ thù đâu cả, không biết trấn áp ai, thanh toán cái gì! Nhưng vì pháp lệnh, vì nghị quyết, vì chỉ thị... buộc giáo viên và cả học trò phải có thành tích báo cáo. Trước mắt, giáo viên chúng tôi sẽ được vào biên chế, được tiền thưởng cuối năm, may ra còn được xếp loại tiên tiến, hoặc xa hơn, đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua. Giáo viên theo dõi, truy bức nhau, học sinh rình rập bới móc nhau, nghĩa là, từ thầy đến trò bằng cách nào đó phải nhanh chóng tạo ra kẻ thù và biến hắn thành nạn nhân rồi lên mặt góp ý xây dựng. Nhưng góp đâu chẳng thấy chỉ thấy tan, xây đâu chẳng thấy chỉ thấy đổ! Căng quá, bứt. Lương tri là loại đèn không cần năng lượng nào cả. Áo cơm cần nhưng không đủ mặn để muối mặt. Kiến thức cần nhưng không phải chỉ dùng ở nhà trường. Giáo viên lai rai bỏ nghề. Học sinh lả tả bỏ học.

Riêng tôi, ra đi không phải chỉ vì ngần ấy. Cũng như người thợ - coi trọng đồ nghề, giáo viên chúng tôi quý sách. Anh Hoàng truyền một lệnh từ trên xuống tịch thu sách báo đồi trụy. Bí thư chi đoàn cho người tới tận nhà tôi mang giúp hơn một ngàn quyển sách đến trường. Tôi rưng rưng xin anh Hoàng cho giữ lại một số thiết thân, cam đoan đây là những sách báo nghiêm túc dùng để tra cứu. Anh dửng dưng nhìn tôi với ánh mắt lạnh, ngấm ngầm răn đe. Uất ức đến đau tức lồng ngực, nhưng tôi câm lặng đứng nhìn. Hội trường biến thành nơi quy tập, sách báo ném vào tới tấp, un cao như một ngọn đồi. Đã mấy lần vuốt mặt, nước mắt vẫn dẫy tràn, sợ người ta phát hiện, tôi cúi mặt ra hiên, rồi lẳng lặng ra về.

Tuần sau, hội trường trống rỗng, sách báo đã được dọn sạch, chẳng sót một tấm bìa. Một nhân viên văn phòng cho tôi hay đa phần đã được chuyển ra chợ bán ký để người ta gói hàng. Một người khác còn cho hay, ngại lan tỏa nọc độc văn hóa đồi trụy, trước khi đem bán ông Hoàng đã cho thanh lọc thông qua nhãn mác sách và nhà xuất bản rồi đưa đi đốt ngay sau hầm cầu nhà trường. Trong số sách của mình, tôi tiếc thương bộ Larousse, bộ Bách khoa Số học, Sử ký Tư Mã Thiên, bộ tiểu thuyết Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi, Anh em nhà Karamazov của Dostoievsky, toàn tập Đường Thi, Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Nam Hoa Kinh của Trang Tử, bộ sưu tầm tranh thời Phục Hưng... và nhất là tập Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du do thầy tôi chép tay bằng chữ Nôm cho tôi - món quà dành riêng cho đứa học trò cưng của mình.

 

3.

Sáng hôm sau thằng bé đến nhà tôi khi trời còn mù sương.

- Chú ơi! - Nó gọi lớn ngay từ ngoài ngõ.

- Gì đấy nữa? - Tôi bước ra hiên, cố dằn giọng cho bớt xẵng.

- Cháu mới đọc tờ báo này... - Nó bước vào, hai tay căng ra trước mặt tôi một trang báo. Đang cho nước vào bình, tôi xoay người cúi xuống. Thằng bé tỏ vẻ lo lắng -Tác giả bài viết này không giải thích như chú.

Nước đổ tràn lan, mắt tôi vẫn không rời những dòng chữ nhỏ như kiến. Tác giả bài này tự đắc phát hiện “mai” trong câu thơ này không phải là loại hoa cảnh, “mai” ở đây là một giống tre. Cơ sở đưa ra để phủ bác cách hiểu cũ là trích hai câu trong bài ca dao lính thú đời xưa.

- “Miếng ăn măng trúc măng mai, những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng” - Thằng bé đọc lớn đoạn văn rồi nhìn tôi chờ đợi.

Trúc, mai, giang, nứa... đều là họ nhà tre. Tôi sinh ra ở Huế, lớn lên, đi vào thì có nhưng đi ra thì chưa. Cây mai tre tôi nào biết mô tê gốc ngọn, nhưng tổ tiên đã đưa vào ca dao kia mà! Cái gì mình không biết không phải nó không có. Ngày ở Huế, tôi chỉ biết tre trúc, tre hóp, tre mày, tre giáo, tre lồ ô, tre ngà, tre mỡ, tre gai, tre vàng... Lên Kontum, tôi biết thêm tre le.

- Cháu đã hỏi mẹ chưa?

- Rồi ạ, nhưng mẹ cháu không biết. Mẹ cháu dạy môn sử. Mẹ bảo cháu qua nhờ chú chỉ cho.

- Thế thầy giáo phụ trách bộ môn?

Nó đứng im lặng, hết gãi tai thì vò đầu. Bóng nắng vào sân. Công trồng là công bỏ, công làm cỏ là công ăn - bài học nghề mới của tôi. Nghĩ đến rẫy sắn đám khoai, cỏ dại đang theo mưa tranh đất, tôi nói:

- Cháu hỏi thầy giáo ngay đi! Phần chú, chưa biết phải giải thích thế nào cho ổn. Để khi thư thả, chú suy nghĩ, tra cứu lại.

Thằng bé ra về. Tôi hộc tốc vác cuốc qua ngõ, vừa đi vừa nhớ quyển sách của thầy tôi cho.

 

4.

Tôi đang ăn, thằng bé lại đến, đi thẳng vào nhà.

- Thầy giáo mắng cháu là thứ vớ vẩn, giáo khoa là pháp lệnh tại sao không chịu tin theo, không chịu tiếp thu, mà cứ nhong nhong bên ngoài, cuối năm thi rớt sẽ trắng mắt ra.

Tôi vẫn tiếp tục ăn. Nó kéo ghế ngồi bên cạnh, tỉ tê kể lại. Theo thầy giáo, “mai” ở đây là cây mơ, có nơi gọi là môi, quả nhỏ như táo Tàu, thường dùng làm kẹo - kẹo “ô mai” vừa ngọt vừa mặn vừa chua các em hay ngậm đấy! Thầy giáo cũng không vừa, dẫn chứng ca dao: “Trúc xinh trúc mọc bờ ao, mai xinh mai đứng chỗ nào cũng xinh”. Thầy còn lập luận, nếu Nguyễn Du dùng từ “mai” là mai tre, sao không viết “Tre cốt cách...” hoặc “Trúc cốt cách...” sẽ phổ cập và tạo biểu tượng gần gũi hơn. Nguyễn Du là một nhà thơ chứ đâu phải nhà sinh vật học chuyên sưu tầm giống cây quý hiếm. Vậy “mai” ở đây nhất định không phải mai tre.

- Cháu về học bài đi! - Cuối bữa, tôi nói - Cháu quá biết cả ngày hôm nay chú bám rẫy, không có thì giờ tra cứu mà cũng chẳng biết bàn bạc với ai!

Thằng bé về, tôi khoác áo đi ngay... Tôi chợt nhớ anh Phùng là một tay văn học lịch lãm, đáng bậc đàn anh của tôi. Sách không có, phải hỏi người, biết làm sao!

Đã tới lúc nghỉ ngơi nhưng anh Phùng vẫn vui vẻ đón tôi, sai con pha trà, rút ngăn kéo lấy ra mấy điếu thuốc thơm. Anh cũng khó khăn như tôi, thường hút thuốc rê. Có dịp, ai cho năm ba điếu anh dành lại, gặp bạn tâm đắc mới toài ra. Mồi thuốc xong, tôi vào đề ngay:

- Anh hiểu thế nào về từ “mai’ trong “mai cốt cách...”?

- “Mai” là một giống tre -Sau một lúc tập trung, anh thận trọng nói.

Tôi tạm đứng về phía đối lập - gom cả ý mình với lập luận của thầy giáo, phản bác anh tới tấp. Anh Phùng im lặng, xoắn xe từng sợi tóc bạc giữa mấy ngón tay khô khốc. Đã quen phong thái trầm tư của anh mỗi khi gặp chuyện khó khăn, tôi nhâm nhi trà và thả hồn theo khói thuốc. Tới lúc bình trà cạn, anh nói:

- Các cụ ta ngày xưa không đề cao cây mai cảnh bằng cây mai tre. Họ nhà tre là biểu tượng của quân tử. Tiết trực tâm hư - Anh khẽ cười - Nếu con chim sẻ đậu trên cành mai cảnh, chắc hẳn quan trạng Mạc Đĩnh Chi không việc gì mà phẫn nộ, và quan khâm sứ của ta khó mà có đủ chứng lý để hàng phục danh sĩ Trung Hoa - Anh lại cười - Từ Huế trở vào người ta quí cây mai cảnh, trở ra, người ta chỉ trọng đào. Đừng quên Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở Tiên Điền, Hà Tĩnh - một vùng đất phía bắc của tổ quốc.

- Nhưng biết đâu? - Tôi liền nhẹ nhàng đặt nghi vấn - biết đâu Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh khi đã theo Gia Long vào Huế làm quan?

Anh Phùng cau mặt ngồi im. Trời trở lạnh, tôi ra về. Đây là lần đầu tiên tôi cầu cứu mà chẳng nhận được từ anh Phùng một trợ giúp nào. Đêm nay chắc cả hai chúng tôi đều mất ngủ. Lao lực như nông dân, lao tâm như học giả, là thế sống thua thiệt nhất của những ai đang là trí thức xã hội chủ nghĩa. Biết thế, nhưng tôi đã lỡ mang nghiệp vào thân.

  

5.

Thằng bé để yên cho tôi dăm ba hôm rồi quay lại.

- Chú đã tìm giúp cháu được chưa? - Nó hỏi, tôi lắc đầu - Vậy bây giờ làm sao hở chú?

- Có một cách... - Tôi chợt im, xoay mặt hướng khác. Thằng bé dịch chuyển theo, mắt môi hong hóng nhìn lên - Nhưng... -Tôi vừa cất cao giọng, lại uất nghẹn tắc tị ngay.

- Nhưng là nhưng thế nào? Chú nói đi!

- Chú có một quyển sách -Tôi lập chập ngồi vào bàn - Chính xác, chú có một quyển Đoạn Trường Tân Thanh chép tay bằng chữ Nôm - thứ chữ mà Nguyễn Du dùng để viết nên tác phẩm ấy. Chỉ việc mở ra, cúi xuống... Nếu “mai” là mai tre, trên đầu phải có bộ trúc. Nếu “mai” là mai cảnh, ở bên phải là bộ mộc...

- Vậy chú còn chờ gì nữa? - Nó háo hức ngắt lời.

- Nhưng cha cháu đã tịch thu và đã đốt lâu rồi!

Thằng bé ấm ức cúi mặt. Tôi ngồi lặng thinh.

 Trần Duy Phiên 

 (Kontum. 1989)

Tuesday, March 2, 2021

Một bài thơ vô danh hay trong mùa đại dịch Covid 19

Trong mùa đại dịch Covid 19 các hoạt động của chúng ta cũng bị ảnh hưởng, thời gian gần đây tình cờ tôi đọc được một bài thơ Anh ngữ rất hay, do một người bạn chuyển tiếp, nhưng không có tên tác giả. 

Có thể là một ai đó vô tình hay cố ý không ký tên vì chẳng ai sở hữu gì trong cái thế giới đang bị dịch bệnh hoành hành này:


"We fell asleep in one world, and woke up in another.

Suddenly Disney is out of magic,

Paris is no longer romantic,

New York doesn’t stand up anymore,

The Chinese wall is no longer a fortress, and Mecca is empty.

Hugs & kisses suddenly become weapons, 

and not visiting parents & friends becomes an act of love.

Suddenly you realize that power, beauty & money are worthless, and can’t get you the oxygen you’re fighting for.

The world continues its life and it is beautiful.

It only puts humans in cages.

I think it’s sending us a message: You are not necessary. 

The air, earth, water and sky without you are fine. 

When you come back,

remember that you are my guests. Not my masters.”


"Bao nhiêu thành phố rộn rịp, náo nhiệt khi mọi người đi ngủ rối thức dậy không một bóng người, bóng xe, không một tiếng động? 

Đâu rồi cảnh giới thần tiên của địa đàng Disney? 

Paris đã hết nên thơ, và New York không còn sừng sững thách thức nữa. 

Vạn Lý Trường Thành thôi là pháo đài đồn lũy và thánh địa Mecca hoàn toàn hoang vắng.

Ôm nhau, hôn nhau bỗng trở thành nguy hiểm. 

Con cái không thăm viếng cha mẹ, bạn bè không thăm viếng nhau là bày tỏ tình yêu.

Trong thoáng giây, người ta ngộ ra quyền lực, nhan sắc và của cải đều vô nghĩa, không thể đánh đổi dưỡng khí cho buồng ngực thoi thóp kêu đòi.

Thế giới vẫn tiếp tục sinh tồn và đời vẫn đẹp, chỉ là con người bị giam giữ trong những cái lồng.

Tôi nghĩ có một thông điệp cho chúng ta: 

Loài người không cần thiết. 

Bầu trời, quả đất, sông biển vẫn an nhiên không cần con người có mặt. 

Nếu có khi nào tái sinh, hãy nhớ con người là khách, không là chủ nhân của vũ trụ này"


Tạm dịch qua thơ lục bát Việt Nam :


Chúng ta thiếp một giấc say  

Tỉnh ra...thế giới đổi thay khác liền 

Disney hết vẻ thần tiên 

Paris lãng xẹt  vô duyên thế nào 

Nữu Ước hết nét tự hào 

Trường thành Vạn Lý nhỏ sao nhỏ là 

Hoang vu thánh địa Mecca

Ôm hôn âu yếm cũng là hiểm nguy

Đừng thăm viếng, cũng đừng đi 

Cha mẹ con cái giờ thì cách xa 

Đột nhiên bạn tỉnh ngộ ra 

Bạc tiền nhan sắc chỉ là phù vân 

Danh vọng quyền lực tan dần 

Chỉ còn dưỡng khí là cần thiết thôi 

Khi hai lá phổi kêu đòi 

Máy thở cho sự sống hồi sinh thôi 

Thế giới tiếp tục sinh sôi 

Cuộc sống vẫn đẹp như hồi  nguyên sơ 

Chỉ loài người sống ơ thờ 

Trong chiếc lồng hẹp để chờ chết thôi 

Thông điệp gửi bạn và tôi : 

Chẳng cần thiết phải sinh sôi loài người 

Không khí,  đất, nước, bầu trời

Vẫn luôn tươi đẹp như thời lập thiên..

Khi bạn trở lại bình yên 

Xin bạn hãy nhớ đừng quên mấy lời: 

Vũ trụ không của con người 

Ta chỉ là khách trọ nơi đất trời 


Qua cơn đại dịch....bạn ơi 

Tìm về Nguồn Thật  muôn đời an vui. 


Cao Nguyên mnc 



BÀI THƠ CUỐI NĂM


Cuối năm, ngồi uống rượu một mình

Chờ một mùa xuân sẽ tái sinh

Trầm ngâm đối bóng trên trang ảo

Như đêm dài đợi ánh bình minh


Uống rượu cũng chỉ là cái cớ

Trải lòng trên giấy trắng đêm nay

Chưa uống đã nghe lòng trăn trở

Hững hờ ly rượu ấm trên tay


Sóng sánh rượu lên màu hổ phách

Thoáng nghe văng vẳng tiếng sênh ca

Mấy chục năm dài thân ly khách

Một hôm bỗng lại nhớ quê nhà


Trầm ngâm bên rượu không ai phạt

Tháng lụn năm tàn lay lắt lay

Rượu không bằng hữu e chừng nhạt

Muốn say cũng khó một mình say


Bằng hữu cách xa vài vạn dậm

Thôi thì đối ẩm mở Face time

Nâng chén chào năm cùng tháng tận

Đón cái tuổi già cũng hết ham


Càng già ta lại càng hay rượu 

Uống vào lại nhớ bạn hiền xưa 

Tú Xương xưa chỉ ba thứ khoái 

Ta giờ nhiều thứ khoái không chừa


Uống vào thơ lại ra vung vít

Bằng hữu góp vào đến muôn chung

Gươm cùn, giày cỏ lê mòn gót 

Ngỡ mình là thứ Lệnh Hồ Xung


Chánh tà hai phái vui bằng thích

Ba hoa miệng lưỡi nói lung tung

Đối ẩm cùng sầu đêm trừ tịch

Nhìn ta sao giống một lão khùng…


Cao Nguyên

30 tháng Chạp

Monday, March 1, 2021

GẶP LẠI THẦN THÁP RÙA

  Nhớ Thầy Vũ Khắc Khoan 







Trưa thứ Bảy 27/2 tôi tình cờ đến giúp một người bạn dọn dẹp những món lặt vặt nơi căn nhà của bạn vừa bị thần hỏa viếng trong những ngày Tết vừa qua. Trong đống xà bần vật dụng áo quần sách vở tranh ảnh... ẩm ướt cháy lem nhem bụi tro nám khói sau cơn hỏa hoạn, nhưng tượng Quan Âm gỗ mun và Đạt Ma Sư Tổ khắc bằng gốc tre già trong đống cháy vẫn còn nguyên vẹn (chỉ bị dính bụi tro đen nhẻm) như là một điều kỳ diệu. 

Điều kỳ diệu thứ hai là... đống hỗn tạp ấy tôi lục ra một số đồ quý mà thần hỏa chưa kịp chiếu cố nhưng bà thủy đến kịp thời lại làm ướt lem nhem, có vài cuốn sách ngày trước tôi đã từng đọc và nghiền ngẫm, trong đó có quyển Đôi Bạn Chân Tình của Hermann Hesse ( Nhà Ca Dao xb 1969) và Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan (Ngàn Lau tái bản 1983 theo mẫu bìa nguyên thủy của Mặc Đỗ). Hốt nhiên tôi rung động trong lòng vì quyển sách cũ này của Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, Ông là thầy của tôi năm đầu ban Văn Chương Việt Nam tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn đầu thu năm Tân Hợi. Tuy đã từng đọc và ngưỡng mộ ông và phần lớn tác giả nhóm Quan Điểm, Sáng Tạo ... nhiều năm trên ghế Trung học nhưng khi la lết trên hành lang các Giảng đường Văn Khoa, Sư Phạm Saigon tôi mới gặp được ông Thần Tháp Rùa Vũ Khắc Khoan bằng xương bằng thịt. Mái tóc muối tiêu bồng bềnh, dáng vẻ nghệ sĩ, ông đến trường bằng xe xích lô đạp. Trong khi đám sinh viên cần mẫn chân chỉ hạt bột đến thật sớm và chiếm nhiều hàng ghế “ngon lành” trong đại giảng đường mênh mông, thì tôi và đám bạn “lè phè” chỉ đến trường trước quý Thầy vài phút, đứng bên ngoài hành lang tán gẫu, phê vài hơi thuốc và ngắm gái, nên mới thấy Đại Hãn thầy tôi ( Vũ Khắc Khoan có viết vở kịch Thành Cát Tư Hãn) bước xuống xích lô vào thẳng giảng đường với lũ sinh viên học trò đang đợi. Điếu thuốc bốc khói luôn luôn trên tay ông, điếu này nối điếu kia suốt trong các giờ giảng. Và chỉ là Bastos De Luxe mà thôi, như một ống khói tàu hỏa. Thầy giảng những gì thì tôi chẳng hề biết và chẳng hề nhớ . Sinh viên thì đông, cái micro và mấy cái loa giảng đường rè rè nghe phát mệt và đám lè phè chúng tôi đứng từ xa chỉ mải ngắm cái nhân dáng nghệ sĩ của ông Thần trong đám khói thuốc Bastos. 

                                                               Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan
                                                                              1917-1986

     

Cours của quý thầy in ra, tôi chỉ đọc qua loa đúng như thầy dạy “Phùng Phật, sát Phật” ...”tận tín thư bất như vô thư” chỉ chăm chú vào mấy tập truyện mấy vở kịch lộng ngôn của sư phụ mà cũng may chưa rớt năm nào. 

Hôm nay, tình cờ “nhặt” được ngọc quý Ông Thần Tháp Rùa trong đám tàn hương nhà cháy thật mừng như tha phương ngộ cố tri. 

Nhớ câu dạy của cha tôi ngày xưa: 

“Đọc sách phải quý sách

Sách vở giữ cho sạch 

Quý sách phải yêu sách

Nhớ đừng để làm rách”

Đêm qua được bạn cho phép mang “bảo vật” về nhà , phủi bụi sấy khô và ngồi đọc lại Thần Tháp Rùa mà nhớ Thầy Vũ Khắc Khoan của chúng tôi. Trong truyện có một đoạn làm tôi nhớ lại chuyện phần thư đốt sách của bọn “đỉnh cao trí tuệ” ngu xuẩn của “bên thắng cuộc” sau 75 tại miền Nam yêu dấu mà đau xót lòng. Nó khác gì “phần thư, khanh nho” thời Tần bạo chúa bên Tầu mà Vũ Khắc Khoan đã thác lời 

 «Đốt được nhà, nhưng sao đốt được sách ? Chàng còn nhớ cuộc phần thư thủa bắt đầu xây dẫy Trường thành? Càng đốt sách, nghĩa của chữ lại càng trong trẻo, dễ vút lên cao, dễ lan ra rộng... Họ Tần đốt sách Khổng Khưu, vậy mà cái lý Tam Cương của người nước Lỗ đâu có bị hoả thiêu cùng sách ?» ( Thần Tháp Rùa, trang 37, Vũ Khắc Khoan)

Ôi! Từ chuyện nhà (người bạn bị) cháy đến chuyện được sách như một cái duyên, hay chỉ là một “cái cớ” như lời Thầy Vũ Khắc Khoan  đã làm tôi nhớ lại kỷ niệm với Thần Tháp Rùa ngày trước cho đến hôm nay 

“ .... nhưng kết cục, chàng lại thấy em, giữa đống tro tàn. Em là của chàng...”( Thần Tháp Rùa ) 

Thư trung hữu nữ nhan như ngọc là đây ...


Xếp quyển sách cũ tôi đi tìm lại Vũ Khắc Khoan trên mạng lưới toàn cầu  :

“ Vũ Khắc Khoan, Kịch tác gia Văn học Việt Nam, sinh ngày 27/02/1917 tại Hà-nội, là học trò trường Bưởi. Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao đẳng Canh nông. Sau khi tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang nghề dạy học, dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà-nội, và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng... giáo sư Đại Học Văn Khoa & Đại Học Sư Phạm Sai Gon ....Và mất ngày  12 tháng 9 năm 1986. “


Ôi! Lại nữa kỳ lạ thay , tôi gặp và đọc lại quyển sách cũ này đúng ngày 27/2/ 2021 cũng là ngày sinh của Vũ Khắc Khoan, Ông Thần Tháp Rùa, thầy học cũ của tôi. 


Thưa Thầy! Con viết mấy dòng ngắn này để nhớ đến Thầy, Ân sư trong đời! 


Cao Ngọc Cường 

Khuya 27 tháng 2