Tuesday, June 17, 2025

HAPPY FATHER’S DAY

 Happy Father’s Day 2025

😍
Khi các con còn bé
Đến lễ Father Day
Tặng bố thiệp con vẽ
Viết lời chúc bằng tay
Thương từ miệng con trẻ
Những câu chúc ngây thơ
Vui nghe con thỏ thẻ:
Daddy! I love you !
Bố cảm nhận hạnh phúc
Đến từ những vòng tay
Từ những lời con chúc
Dad! Happy Father’s Day
Rồi thời gian trôi êm
Các con ngày càng lớn
Đi học đi làm thêm
Đến ngày dành cho bố
Happy Father Day
Các con biếu Toolset
Kềm, búa … kéo tỉa cây
Hay một cái cà-vạt …
Những món quà nhỏ bé
Vài món đồ làm vườn
Các con gửi đến bố
Với tất cả yêu thương
Bố vui khi nhận quà
Tuy có thứ chẳng thiếu
Các con nghĩ đến cha
Là các con thảo hiếu
Năm tháng dần trôi qua
Các con thành bố trẻ
Bố giờ là bố già
Sức yếu không còn khỏe
Chỉ loanh quanh trong nhà
Đến ngày lễ của Cha
Các con đưa ra quán
Bố trẻ đãi bố già
Cả nhà đều vui vẻ
Các mẹ cũng vui lây
Bên đàn con, đàn cháu
Happy Father’ Day
mnc
6/2025

Happy Father’s Day 2023

Năm xưa bố chưa già 
Cứ đến Ngày Của Cha 
Các con nhớ đến bố 
Chúc mừng và gửi quà 
Búa kìm cùng tool box
Để sửa xe sửa nhà
Những dụng cụ vườn tược 
Bố chăm sóc backyard 
Vun xới và tưới cỏ 
Trồng cây và trồng hoa 
Đẹp để cho mẹ ngắm 
⚜️⚜️
Giờ thì bố đã già 
Chỉ đi vào đi ra 
Father’s Day lại đến 
Nhìn lại những món quà 
Năm xưa … nằm đâu đó 
Trong một góc garage 
Father’s Day lại đến
Mừng bố Ngày Của Cha 
Con mời ăn đâu đó 
Bố vui hơn được quà
Bố vẫn còn hạnh phúc 
⚜️⚜️⚜️
Chúc các bố trẻ già 
Happy Father’s Day! 
18/6/23

MƯỜI HAI THÁNG SÁU

 MƯỜI HAI THÁNG SÁU

“C’est le cœur qui parle et qui soupire
Lorsque la main écrit, c’est le cœur qui se fond.”
A. Musset
Mười Hai Tháng Sáu !
Nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương (1916-1976), một nhà thơ lớn của miền Nam đã viết hai bài tuyệt bút về ngày 12 tháng 6.
Mười hai tháng Sáu, là ngày nàng thơ Tố Vân hay Kiều Thu, Vân Muội là Tố là Mây ....người yêu của thi sĩ Vũ Hoàng Chương...” …lên xe cưới về quê chồng, cách mấy đò ngang cách mấy sông”. Lòng thi sĩ “cuồng điên vì nhớ “ Thi sĩ đau đớn, thi sĩ mê ngất, thi sĩ thù hận ...nhìn “ trăng của nhà ai ... “, thi sĩ mượn rượu “phá thành sầu”.
Sầu tình, hận tình ngút ngàn lửa khói và thi sĩ khóc lóc thành hai bài tuyệt thi được thi sĩ viết cách nhau 31 năm (ta đợi em từ ba mươi năm).
Bài đầu là “Mười Hai Tháng Sáu” viết ngày 12/6/1941.
Bài sau là bài “ Tố Của Hoàng Ơi” viết ngày 12/6/1972 và giữa hai mốc thời gian đó là “Bài Ca Hoài Tố” viết năm 1942.
Hôm nay 12/6 Ghi lại hai bài thơ về Mười Hai Tháng Sáu của Vũ Hoàng Chương để nhớ Ông và mối tình thủy chung đau đớn của nhà thơ ....
mnc
12/6
⚜️⚜️⚜️
MƯỜI HAI THÁNG SÁU
Trăng của nhà ai trăng một phương
Nơi đây rượu đắng mơ đêm trường
Ờ, đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi! hỡi nhớ thương!
Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm thôi nhé mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước!
Tố của Hoàng ơi! Tố của anh
Tháng sáu mười hai - từ đấy nhé
Chung đôi - từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi
Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ngày mười hai
Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc
Tố của Hoàng, nay Tố của ai?
Tay gõ vào bia mười ngón rập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi
Kiều Thu hề Tố em ơi!
Ta dương lửa đốt tơi bời Mái Tây
Hàm Ca nhịp gõ khói bay
Hồ xừ xang xế bàn tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp thương
Sầu cao ngùn ngụt mây đường tơ khô
Xừ xang xế xự xang hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi em!
Nghiêng chân rốn bể mà nghe lửa bùng
Xế hồ xang khói mờ rung
Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn
Vũ Hoàng Chương
(12.6.1941)
TỐ CỦA HOÀNG ƠI
Năm mười hai tháng ai không biết
Đã tháng nào không tháng sáu chưa
Tháng có ba mươi ngày để giết
Ngày mười hai vẫn sống như xưa.
Lịch treo trước ngực kêu thành tiếng
Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa
Rả rích từ hôm con én liệng
Vào lồng son, tủi áng mây đưa.
Thời gian từng giọt buông theo máu
Lại trở về, không gọi cũng thưa.
Còn đó mười hai, còn tháng sáu
Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa!
Còn khóc trong tim này bất tuyệt
Dường như rối loạn cả đường tơ.
Trăng nhà ai vẫn là trăng khuyết
Đứng sững từ đêm ấy đến giờ !
Ngày mai ngày mốt anh nằm xuống
Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ
Đập nát ra cho trời đất uống
Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ.
Phút giây trăng một phương tròn lại
Rồi từ hoà tan rượu đắng mơ
Cùng nhịp tim trôi vào tận cõi
Không ngày, không tháng, không bơ vơ.
Mười hai tháng sáu cung hồ xế
Một mối tình si một mối thù
Giây phút cũng tan thành biển lệ
Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu !
Vũ Hoàng Chương
(12/6/1972)
Ghi thêm một giai thoại văn chương : Vũ Hoàng Chương (1916-1976) và nữ sĩ Ngân Giang (1916-2002) , bạn thơ tri kỷ của ông. Hai thi nhân đã nổi danh từ thời Tiền Chiến.
Năm 1954 chia đôi đất nước, VH Chương và gia đình vào Nam, Ngân Giang bị kẹt lại Hà Nội. Giao tình gián đoạn vì thời cuộc nhưng VHC vẫn nhớ và cố tìm tức bạn thơ sau bức màn tre trong vô vọng.
Năm 1976 nhà thơ bị đi tù và được thả về chờ chết, người em trai của VHC từ Bắc vào thăm anh, cho biết tin nữ sĩ Ngân Giang nơi miền Bắc, mấy mươi năm bị trù dập, sống khổ sống tuyệt vọng đến cùng cực, “chết không được đành phải sống” . Tuy rất nghèo nhưng VHC vẫn cố tìm mua 10 mét gấm nhờ em trai gửi biếu cố nhân Bà Ngân Giang nhận được tin và quà của cố nhân thì rất mừng và cảm động, nữ sĩ viết lên tâm trạng khi đó: “Ý anh ấy gởi cho tôi mười mét gấm là để tôi may áo. Mà lại là gấm mầu nâu nữa. Tôi hiểu như là Vũ quân muốn khuyên tôi hãy dẹp bỏ lòng trần, trở về với Phật. Tôi không thể làm theo ý anh được. Bởi lẽ gạo ăn hàng ngày còn thiếu, sao có thể mặc áo gấm! Con cái còn trông cậy cả nơi mình, làm sao mà rảnh rang miền tục lụy! Thế là tôi đành phải bán mười mét gấm đó, mua được 5 yến gạo, và còn đủ tiền may một bộ quần áo thường. Nói ra điều này, tôi thấy tủi cho mình, và cũng tội cho vong linh của Vũ quân lắm!”
Cuối năm 1976, khi tin thi sĩ Vũ Hoàng Chương tạ thế đưa về đến Hà Nội, nữ sĩ Ngân Giang càng thêm xúc động, buồn nhớ cố nhân bà viết bài thơ tha thiết khóc bạn thơ tri kỷ đã không còn nữa, trong bài có nhắc lại “12 tháng Sáu lạnh màu tang”
“Ớ Vũ Hoàng ơi! Ớ Vũ Hoàng!
12 tháng 6 lạnh màu tang.
Mây không lãng đãng theo chân ngựa
Say để bâng khuâng ngã giữa đường.
Một áng bạch vân dài nẻo nhớ,
Bài ca dị hỏa khóc người thương.
Mà dòng Dịch thủy trôi trôi mãi
Rẽ lối hoa lê trắng dặm trường. “ 
Ngân Giang nữ sĩ

Thursday, June 12, 2025

CÁ BỐNG KHO TIÊU

 Sáng nay, đọc bài cá bống trứng kho tiêu ... của Mai Nguyen vừa post trên trang LTQN làm tui bắt thèm...ngang xương.



Món “cá kho thệ xứ Huế của má ...” trong bài Mai Nguyen đưa lên làm tôi ngờ ngợ về chữ “thệ” của người Huế hay dùng.
Thệ là thề ước như Cầu Thệ Thủy, Quán Thu Phong mà ngày trước ông thầy dạy Cổ Văn của tui cắt nghĩa là Cầu thề ước của đôi tình nhân xưa chăng?!
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán thu phong đứng rũ tà huy
(Cung oán ngâm khúc-Nguyễn Gia Thiều)
Răng đang noái món ăn mà lại lộn sang thơ vầy cà ?
“Cá bống kho thệ” hay “cá bống thệ kho tiêu”
Rứa là “cá kho thệ” làm tui lại ngỡ cá được kho trong cái “thệ” hoặc cái “trã” đất gì đó, tui cũng không chắc có một thứ nồi nhỏ để kho cá mà người Huế gọi là cái “thệ”? (!)
Còn “cá bống thệ ...kho “ thì lại có ý là một loại cá bống thệ, như bống cát, bống mú, bống bang .... gì gì đó ?
Đang tự théc méc ? bán tín bán nghi ! thì bà chị Kimoanh Huynh chính gốc Huệ của tui nhảy vào “còm” như ri:
...” món cá bống thệ kho rim và cải non” . Chỉ còn khoe “chị ăn hết trách cá kho và dĩa cải con thật nhiều ! “
Rứa thì đúng rồi “cá bống thệ“ rim tiêu kho trong cái “trách” đúng kiều Huế rồi
Uh ! Cá bống thệ là con cá bống gì vậy trời ! Tui biết tên các loại cá (nhờ vợ chỉ dạy khi đi chợ cùng nàng) như bống tượng, bống dừa, bống đao, bống kèo, bống bùn (cá thòi lòi), bống cát (mùn mủn), bống mũ (mun), bống sao, bống trứng ; (và kể cả bống ...bang) …Riêng cá bống kho khô (để ăn với cháo) ở Huế là loài cá bống “thệ” thì hôm nay tui mới “ngộ” ra
Răng lại gọi là bống “thệ” ha ? chị Kimoanh Huynh ui !
“Thệ” có thể là tiếng Hán Việt như Cầu thệ thủy mà hồi xưa ông thầy Việt Văn đệ Ngũ của tui đã giảng là chỉ làn nước ( thủy) mà thề ước (thệ) (!) nhưng về sau lên đại học tui có hỏi thầy Trần Trọng San dạy Hán Văn cho tui về chữ “thệ” trong ( cầu thệ thủy ) thì “thệ” ở đây có nghĩa là “chảy qua”
Thầy còn đọc thêm một bài thơ chữ Hán “Ký Mộng” của cụ Nguyễn Du khi đi xa nhớ vợ
Thệ thủy nhật dạ lưu
Du tử hành vị quy
Kinh niên bất tương kiến
Hà dĩ úy tương tư
Nước sông ngày đêm chảy
Du tử đi chưa về!
Bao năm không gặp mặt
Nhớ nhau đến ủ ê
“Thệ thủy” (逝水 ) là “nước chảy qua ” cầu “thệ thủy” chỉ là cầu ( trên dòng) nước chảy thôi. Chẳng thề non hẹn biển gì sốt.
Nhớ lời thầy xưa dạy , Tui suy ra là cá bống “thệ” rặt Huế là loài cá bống nhỏ sống nơi nước chảy (xiết) khúc Vỹ Dạ, Truồi ...nên cá săn chắc thịt thơm ngon chăng ?
Sông Trà Khúc có bống cát to hơn cũng ngon nhưng vẫn không ngon như bống thệ Huế !
Tui thấy có người còn kêu là bống “xệ” nữa cà ??!
Hôm ni thứ bẩy cuối tuần lang thang fb mà thèm món bống thệ kho tiêu xứ Huế quá đi !
Mùa này Houston có cải non cải con nhưng bống “thệ” biết tìm mua nơi mô.
June 8

HÀNH TRÌNH 50 NĂM LY HƯƠNG VIỄN XỨ


https://www.lienlac.net/FlippingBook/Hanh%20Trinh%20Vien%20Xu/mobile/index.html?fbclid=IwY2xjawK30QBleHRuA2FlbQIxMQBicmlkETFXMmhqbXl5RjNrcXlMVzQzAR5VVoCZGvO7kZIoLyKcJOQTi_sdPlSymmueklMCuQcCLE856ySa9p6obgtmGA_aem_oV4gJiPV4Dn2qG1DdlUa7Q


(Xin vui lòng click vào link e-book để đọc và nghe 🎶Thanks)
⚜️⚜️⚜️
TUYỂN TẬP 50 NĂM
Hành trình viễn xứ
Tuyển tập này được soạn và ấn hành nhân kỷ niệm 50 năm ly hương viễn xứ (1975-2025) phát hành tại trại họp bạn Hướng Đạo Trưởng Niên (HĐTrN) Bách Hợp VI được tổ chức vào đầu tháng 6/2025 tại Portland Oregon. Nơi đã từng tổ chức trại Bách Hợp HĐTrN đầu tiên 10 năm trước đây.
30/4/1975. Lịch sử đã làm cuộc chia ly vô cùng lớn với hàng triệu người Việt phải đành đoạn rứt ruột dắt díu nhau, rời bỏ quê hương đất nước trong cùng cực hoang mang, hãi hùng và tuyệt vọng. Bỏ lại sau lưng một quê hương yêu dấu mịt mờ lửa khói để trôi giạt nơi quê người chưa biết về đâu.
Lại nhớ hai mươi năm trước đó 20/7/1954, gần triệu người đã tự nguyện làm cuộc ly hương, lìa xa quê Bắc vào miền Nam tìm tự do. Cuộc di cư vĩ đại của dân ta:
“Một ngày mùa chinh chiến ấy,
Chim đã xa bầy mịt mờ bên trời bay”
Hành trình lìa bỏ quê hương di cư vào Nam này tuy vất vả, đành đoạn nhưng không đến độ bi thương vì vẫn còn nuôi hy vọng làm lại cuộc đời trên quê hương mới sáng dội miền Nam. Ngày ấy, đồng bào phải ly hương nhưng vẫn còn cùng ở trong một đất nước hình chữ S.
Và chắc chắn rất nhiều người di cư 1954 và cả đồng bào miền Nam đã không thể ngờ được rằng họ sẽ phải xa quê hương thêm một lần nữa trong đời từ ngày định mệnh 30/4/1975. Hơn thế nữa, rất nhiều thập niên sau đó, hàng-hàng-lớp-lớp người Việt Nam vẫn tiếp tục liều chết, bỏ nước ra đi.
Vòi või nhìn về “cố lý xa xôi” bên kia bờ đại dương, đã cách xa nửa vòng trái đất. Đây mới chính là cuộc viễn xứ ly hương vô cùng đau đớn. 50 năm ly hương đã trôi qua, như một giấc mộng dài của một đời người đã phải chọn lựa giữa: Tự Do hay là Chết. “50 năm, một khoảng thời gian tuy ngắn cho lịch sử của một dân tộc, nhưng lại dài cho một đời người. 50 năm trước, toàn lãnh thổ Việt Nam rơi vào sự thống trị của những người Cộng Sản. Và kể từ đó, hàng triệu người dân Việt Nam đã bỏ xứ ra đi, bắt đầu là làn sóng vượt biên gian nan, hiểm nghèo của những thuyền nhân, bộ nhân làm rúng động lương tâm thế giới vào những thập niên 70, 80, và 90. Những người Tị Nạn Việt Nam năm xưa và thân nhân của họ đã xây dựng nên những Cộng Đồng Người Việt Tự Do lớn mạnh trên khắp thế giới. Cái quá khứ Tị Nạn đó bây giờ đã bị lãng quên, hay vẫn còn hằn sâu trong tâm thức của họ? Thế hệ thứ hai, thứ ba, con cháu của những người Tị Nạn gốc Việt, đã có những đóng góp ngày càng đáng kể vào xã hội nơi họ đang sống.
Bao nhiêu người trong thế hệ hiện tại và tương lai hiểu nguyên do vì sao họ được sống trong một xã hội tự do nhân bản, và có bao nhiêu người trong số đó thật sự trân quý cái giá mà cha ông họ đã phải trả?!” (Thuyền Nhân: hành trình 50 năm” - phim tài liệu dài 90 phút do đạo diễn Thanh Tâm thực hiện).
Tuyển tập Hành trình 50 năm viễn xứ trong lòng người hướng đạo ly hương chỉ là một cố gắng góp nhặt những mảnh tâm thức viễn xứ lắng đọng qua những vần thơ ly hương của những người từng là hướng đạo sinh, đã có mặt, trong và sau cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Là tiếng lòng của những người “xa quê hương” dấn thân vào hành trình 50 năm tha hương viễn xứ của người tị nạn Việt Nam. Có nhiều người trong số đó đã không thể trở về quê hương sau nửa thế kỷ dài viễn xứ.
Cuộc ly hương ấy không chỉ là 50 năm mà còn hơn thế nữa từ ngày đất nước chia đôi sơn hà, mà mỗi người tị nạn là một thuyền nhân trên con “thuyền viễn xứ” mà “niềm thương nhớ ngày nào hướng về "cố lý xa xôi" sẽ được nhân lên nhiều cấp số để trở thành nỗi hoài niệm không nguôi của những tâm hồn lưu lạc "gửi về phương ấy mịt mờ quê hương".
Ngày tháng ly hương cứ dài mãi, dài mãi.
Năm năm, mười năm, mười lăm năm … rồi năm mươi năm.
“Ngày về quê xa lắc lê thê…” Nửa thế kỷ tha phương viễn xứ “nỗi quan hoài mang mể biết bao”. Đã có biết bao người trong cuộc viễn xứ ấy đã ôm sầu ly hương mà nằm trong lòng đất lạnh quê người. Có biết bao người không chờ được đành qui cố hương làm thân Từ Thứ qui Tào.
Tha phương viễn xứ hoàn cảnh nào cũng bi thiết sầu vương.
⚜️
Mỗi bài thơ trong tuyển tập này là một tâm tình người viễn xứ hoang mang, thê thiết từ buổi đầu bỡ ngỡ phải xa nơi chôn nhau cắt rốn, như lá xa cành chim xa cội, như nước xa nguồn. Ra đi chẳng hẹn một ngày mai nhưng vẫn hoài mong có được một lần trở về quê cũ.
Người thơ trong tuyển tập phần lớn là những người từng sinh hoạt trong phong trào Hướng đạo, từng là quân, dân, cán, chính phục vụ Miền Nam tự do một thời. Những lời thơ là tiếng vỗ cánh của đàn chim lưu lạc muôn phương khắc khoải vọng về quê cũ.
Năm mươi năm trôi qua các tác giả trong tuyển tập nhỏ này,
người mất, người còn …. Tiếng thơ của quý vị vẫn rung cảm trong lòng người đọc đồng tâm trạng hoài thương cố quốc.
Trân trọng giới thiệu tuyển tập này đến quý trưởng niên và thân hữu tại trại Bách Hợp VI Camp Mountaindale Portland Oregon, như một món quà nhỏ nhân kỷ niệm 50 năm viễn xứ trong lòng người hướng đạo ly hương.

mnc
6/2025


Tuesday, March 18, 2025

T U Y Ế T X U Â N

 

Tuyết đã rơi đêm qua
Tuyết tháng giêng năm mới
Rơi trắng trước sân nhà
Mỏng thôi như cũng đủ
Mang lạnh từ phương xa
Về ngang qua thành phố
Rơi trong đêm nhạt nhòa
Tuyết như người bạn cũ
Lâu lắm mới ghé qua
Một trời đầy hoa tuyết
Cùng mùa Xuân nở hoa

mnc

Houston 21/1/2025

Monday, March 17, 2025

50 NĂM VÀ NHỮNG TỜ LỊCH MỚI


Trần Mộng Tú
50 năm như một giấc ngủ dài, thức dậy vẫn còn lãng đãng giữa chiêm bao.
Từ những cái Tết đầu tiên còn độc thân, còn cha mẹ, anh em chưa mất người nào. Cả gia đình ngơ ngác đất lạ, quê người … nén nhang thắp lên cành hoa ngoài vườn cắt vào, cùng với bao nhiêu xúc động.
Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt
Khói có bay về tận cố hương
Vườn người tôi chiết cành xuân thắm
Nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn. (tmt)
Như bao nhiêu người Việt lưu vong khác, chúng tôi làm lại cuộc đời mình, và bằng một cách nào đó, chúng tôi chấp nhận thích nghi với đời sống như hoa cỏ thích nghi với khí hậu, như cây quýt ở Giang Nam bên Tàu, mang sang vùng khác vẫn ra hoa kết trái tuy vị ngọt đã khác đi, nhưng cây vẫn sống và sinh hoa, kết quả hàng năm.
Thời gian đã một phần nào chữa lành những vết thương và giúp những vết sẹo lên da non, mờ dần. Trong mấy chục năm làm người di tản, chúng ta, chắc ai cũng hơn một lần thay đổi nhà cửa, thay thành phố hay sang hẳn một tiểu bang khác, và mỗi một lần thay đổi là một lần hoang mang, một lần nén nỗi ngậm ngùi, cho dù nhà có đẹp hơn, thành phố có thích nghi hơn. Bởi vì đi đâu cũng thấy mình là “Người Di Tản”
Trong 50 năm, thế hệ hậu duệ của “Người Di Tản” đã làm nên bao nhiêu kỳ tích. Cái xấu cũng có xảy ra nhưng so với cái tốt thì quả thực hậu duệ của Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng cho những quốc gia cưu mang mình không thất vọng.
Thời gian cứ thản nhiên trôi qua, Cha Mẹ chúng tôi và một vài người thân đã nằm im nơi đất khách, thế hệ của chúng tôi đã nhiều bạn bè bỏ đi biền biệt, họ chơi trò trốn tìm nhau dưới những đám cỏ xanh. Họ có tìm được nhau không?
Những người chưa chơi trò “Trốn Tìm” còn lại … Sáng thức dậy cùng mặt trời thấy mình hiện hữu, soi gương mắt đã rạn chân chim, tóc mỏng và trắng như sương mù, sương muối, biết là mình đã ở đây lâu lắm rồi. Lòng hoài hương nhớ về cố quận thì ai mà không có, nhưng họ vẫn sống với tất cả những gì họ có để gây dựng cho một thế hệ tương lai tốt đẹp hơn trong khả năng của mỗi người. Người Việt là một trong những số người Á Đông có sức chịu đựng bền bỉ, thông minh và chăm chỉ.
Hậu duệ của những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã có mặt ở mọi nơi, từ quân đội, chính trị, văn học, tôn giáo. Họ cống hiến và được đánh giá cao. Cái xấu đôi khi cũng có, nhưng so với cái tốt gặt hái được trên mọi lãnh vực, từ các nơi trên thế giới, giúp cho những người Quốc Gia đã hy sinh nằm xuống cũng được an ủi đôi phần.
Sau 50 năm nước Việt hoàn toàn về tay Cộng Sản, Cộng Sản vẫn sợ bóng, sợ vía lá cờ VNCH. Chỉ cần lá cờ mà họ đã khinh miệt, chà đạp đó xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào, nhà cầm quyền Cộng Sản đã ầm ầm báo động và bắt phạt những người vô tình đứng cạnh. Mặc dù sau 50 năm khi có thiên tai xảy ra, trong nước vẫn không quên kêu gọi người Việt hải ngoại đóng góp. “Tình Đồng Bào” vẫn được ân cần nhắc tới.
50 năm, Nick Út, cựu nhiếp ảnh viên của AP rủ tôi về Hà Nội, nơi hiện thời AP có chi nhánh văn phòng ở đó. Tôi đã từ chối và nói cho Nick Út hiểu rằng, trong văn phòng đó không có một cựu phóng viên Mỹ nào của Saigon ngày cũ làm việc cùng chúng tôi nữa. Họ phần đông đã qua đời vì tuổi tác, nếu chúng tôi có về thì toàn gặp những nhân viên mới, cả Mỹ lẫn Việt, và những người Việt nếu có trong văn phòng đó, chắc chắn không phải là người quốc gia, nên đâu có thể gọi là re-union được, nó sẽ mang lại cho chúng tôi sự lạc lõng và … buồn.
Thời gian của tôi trôi về đâu
Năm mươi năm lòng vẫn còn đau
Tay vuốt tóc tay gày như tóc
Một nhánh hổ ngươi vạn nhánh sầu. (TMT)
Những tháng cuối năm, tôi hay mong ngóng những cuốn lịch mới. Từ những cuốn Lịch của nhà thờ, họ đạo ở thành phố tôi cư ngụ, có ghi những ngày Lễ các Thánh, Lễ quan trọng như Phục Sinh, Giáng Sinh… để nhắc nhở mình sửa soạn một tâm hồn nhẹ nhàng thanh sạch đến Thánh Đường dự lễ, tôi cũng tìm đến những cuốn lịch ở các siêu thị Á Đông có ghi những ngày tháng âm lịch để tiện theo dõi những Mồng Một, ngày Rằm, của tháng âm lịch. Tôi cũng hay lang thang vào tiệm sách để tìm mua Lịch mới, loại lịch xé mỗi ngày một tờ là loại tôi thích nhất, loại này hiếm, không phải dễ tìm.
Tôi thích những tờ Lịch mỗi ngày này. Tôi có thể ghi xuống đó những công việc sắp tới và khi ngày đó đi qua, tờ lịch được xếp sang một bên và tôi có thể xếp nỗi buồn vui của mình như xếp lại một tờ lịch đã hoàn tất. Những tờ lịch xé ra tôi để ngay vào một cái hộp bên cạnh đó. Thỉnh thoảng lại nhìn xem đã phung phí hết mấy phần thời gian trong đời sống và cuối năm có thể đếm được bao nhiêu giọt nước mắt với bao nhiêu tiếng cười.
Việc mua Lịch xé từng tờ này tôi yêu thích từ khi còn trẻ ở quê nhà. Bây giờ nhớ lại thời gian đã xé “Những Tờ Lịch Cũ” và đã thả chúng bay như bươm bướm từ văn phòng làm việc ở lầu 4 của Thương Xá Eden xuống dưới đường vào những ngày cuối năm trong một thành phố thơ mộng của ngày xa xưa đó chỉ còn là kỷ niệm …
Bây giờ ở quê người, tôi vẫn thích có cuốn lịch rơi từng tờ mỗi ngày, nhưng không phải năm nào tôi cũng tìm được. Cuốn lịch xé mỗi ngày năm nay của tôi là cuốn lịch có 365 tấm hình “Chim Trong Vườn Sau” đầy màu sắc. Cuốn này tôi có được do nhân dịp chị bạn thân Trùng Dương, ghé chơi vài ngày. Hai chị em lang thang trong một tiệm sách gần nhà, tôi tìm thấy lịch xé từng tờ mỗi ngày, mừng quá, reo ầm lên, Chị thấy tôi vui quá, vội vàng mua tặng.
Hình con chim đầu tiên trên cuốn lịch là con Northern Cardinal và con cuối năm là Western Tanager. Cả hai con chim này đều màu sắc rực rỡ.
Trong năm mới sắp tới này, hơn 300 con chim đầy màu sắc của vùng Tây Bắc nước Mỹ trên bàn viết, sẽ là niềm vui của tôi mỗi ngày. Mỗi lần mở một ngày mới, sẽ có hình một con chim mới khác nhau hiện ra, tôi sẽ đọc Thơ cho những con chim trong lịch nghe:
Ngày xưa anh đón em
Nơi gác chuông chùa nọ
Con chim nào qua đó
Còn để dấu chân im
Anh một mình gọi nhỏ
Chim ơi biết đâu tìm.
(Phạm Thiên Thư)
Như những con chim để lại dấu chân trên gác chuông, chúng tôi những người di tản đã để lại nhiều dấu tích tốt đẹp: đó là thành công của con cháu người Việt gần như hầu hết trên mọi lãnh vực trên những quốc gia, những thành phố họ định cư.
Chúng tôi dù ở tuổi nào, luôn có niềm tự hào của những con chim bé nhỏ: Tự tin, xoải cánh trên bầu trời bát ngát.
Trần Mộng Tú – Xuân Ất Tỵ 2025